Tùy phong tục và tập quán mỗi vùng miền,
con lợn được người dân gọi bằng những tên gọi khác nhau như lợn, ỉn, heo, trư hợi…
Con lợn là vật nuôi phổ biến, gần gủi và gắn bó lâu đời với đời sống người
Việt.
Mặc dù Hợi là con vật biểu tượng cuối cùng
trong bảng 12 con giáp, nhưng lợn lại là một trong những gia súc có quan hệ mật
thiết với con người cùng chó, mèo trong mỗi gia đình. Đối với cuộc sống người
Việt, mỗi một loại vật nuôi đều có một mục đích riêng. Mặc dù chăn nuôi gắn
liền với trồng trọt và sự tác động qua lại giữa chăn nuôi với trồng trọt là hai
mặt không tách rời nhau trong mọi cộng đồng dân cư. Thế nhưng ngày xưa mọi vật
nuôi đều có nhu cầu giết thịt làm các món ăn cho người. Lâu dần tạo thành thói
quen, mỗi loại vật đều gắn với những gia vị quen thuộc như:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho
tôi
Con chó khóc đứng khóc
ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng
riềng (1)
Khác hẳn với chó, mèo là những con vật
nuôi còn có phận sự giúp việc cho người. Chó để giữ nhà, dẫn đường, săn thú…;
mèo để bắt chuột bảo vệ mùa màng, lương thực… còn lợn chỉ biết ăn, ngủ, sinh
sản và hưởng thụ sự phục vụ của con người. Vì thế lợn được xem là vật nuôi lười
và kém thông minh nhất. Khái niệm “ngu
như lợn” được ra đời từ đó để người ta ám chỉ những người không biết tư duy,
linh hoạt, chủ động sáng tạo trong cuộc sống. Nhưng ngược lại cũng vì thế con
lợn được xem là biểu tưởng của cuộc sống an nhàn, hưởng thụ, no đủ và sự sinh
sôi nẩy nở một cách sung mãn nhất. Người Việt còn có quan niệm rằng: người được
sinh ra vào năm Hợi là người có được vận may, sống nhàn hạ, không cần làm lụng
vất vả-“Tuổi hợi ngồi đợi mà ăn”. Mặc dù việc nuôi lợn ở mỗi vùng miền có những
nét khác nhau như lợn chuồng, lợn thả rông tự kiếm ăn, lợn tạ miền xuôi, lợn
cặp nách vùng cao và ngày nay là lợn trại … Trong cộng đồng người Việt từ xa
xưa, lợn được xem là một loài vật linh
thiêng, mơ ước của cuộc đời người lao động. Lợn được chọn là một loài vật dùng
để tế thần, cống nạp và không thể thiếu vắng trong các ngày lễ trọng đại vui,
buồn của mọi cộng đồng. Lợn được đi vào thơ ca, tạo nên những tuyệt tác trong
dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng. Trước đây ở nhiều gia đình người Việt để chuẩn bị
cho việc đón tết cổ truyền, người ta tìm mua và treo tranh Đông Hồ bên cạnh
những câu đối đỏ, lấy đó làm niềm vui là biểu hiện của ước mơ an lành, thịnh
vượng trong cuộc sống
Trong quá trình tiến hóa của lịch sử, có
người chuyên nuôi lợn đực phủ giống, lại có người chuyên nuôi lợn nái bán lợn
con; tuy vậy việc nuôi lợn phổ biến vẫn là để lấy thịt làm thực phẩm. Từ một con lợn thịt,
người ta có thế chế biến được rất nhiều
món ăn ngon miệng, ưa thích, hay làm thực phẩm để dùng lâu dài. Những món ăn
thời hiện đại như lạp sườn, ba tê, xúc xích, ruốc bông, bột nêm… đã xuất hiện.
Con lợn có thể cung cấp nguồn thịt lớn, nên thịt lợn là nguồn thực phẩm dồi
dào, có thể phục vụ được nhu cầu của số đông người. Mọi vùng thôn quê, nuôi lợn
còn là một nghề quen thuộc giúp người dân tạo nên nguồn thu nhập kinh tế đáng
kể để phục vụ mọi nhu cầu chi tiêu trong đời sống thường ngày.
Trong các cuộc kháng chiến, từ việc phát
triển chăn nuôi lợn, người dân các vùng hậu phương còn tạo ra một lượng thực
phẩm đáng kể phục vụ cho quân đội đánh giặc ngoài mặt trận. Phục vụ cho chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954, mặc dù xa mặt trận nhưng người dân Hà Tĩnh đã huy
động gần 2 ngàn tấn thực phẩm phục vụ chiến trường. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, chỉ tính riêng năm 1967, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động đột xuất trong dân
được một ngàn tấn thịt lợn(2) để phục vụ nhu cầu thực phẩm cho bộ đội chiến đấu.
Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ;
đất nước đi vào thời kỳ xây dựng mới trong điều kiện phục hồi sau chiến tranh.
Đời sống của mọi tầng lớp nhân dân còn gặp nhiều khó khăn thì việc nuôi lợn
được người dân xem như một cứu cánh giải quyết tình thế. Đã không ít người dân
thành phố đưa lợn vào chăn nuôi ngay cả trong những khu chung cư cao tầng để
tăng thêm nguồn thu nhập. Đây không phải là việc làm đáng khuyến khích, thế
nhưng trong thực tế nhiều người qua đó đã tạo được tiền đề, phấn đấu trưởng
thành. Nhiều người nhờ nuôi lợn, nấu rượu mà có nguồn kinh phí cho con ăn học
đỗ đạt qua các kỳ thi, giành được những học vị cao trong khoa cử. Đã có cả những cán bộ nghiên cứu đưa lợn vào
chăn nuôi và khái niệm “lợn nuôi tiến sĩ” được ra đời từ đó. Từ việc chăn nuôi
lợn, con người đã nghĩ đến việc tận dụng phế thải, người ta đã tìm đến việc xử lý phế thải bằng
những hố khí Biogas và việc sử dụng chất đốt khí đã một thời phát triển.
Giờ đây lịch sử đã sang trang, đất nước đang trong quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa. Trong cơ chế thị trường con lợn đã vượt qua biên giới trở thành
hàng hóa xuất khẩu làm giàu cho đất nước. Bám theo thị hiếu người tiêu dùng và
kế thừa kết quả khảo nghiệm khoa học con người đã bắt đầu nuôi lơn quy mô lớn.
Những trại lợn siêu nạc ra đời đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng và mang
về nguồn lợi đáng kể cho các chủ nuôi. Con lợn không còn chỉ là biểu tượng mơ
ước mà đang tham gia vào quá trình phát triển; giải quyết việc làm cho người
lao động. Mới đây tập đoàn Masan đã làm lễ khánh
thành Nhà máy chế biến thịt lợn có quy mô lớn ở Hà Nam . Với diện tích gần 50 ha, tổng
vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng, tổ hợp nhà máy có công suất chế biến 1,4 triệu con
lợn tương đương 140.000 tấn/năm. Trong
tương lai không xa; việc chăn nuôi lợn nhỏ lẻ đang được cuốn hút trở thành dịch
vụ vệ tinh cho các trung tâm. Con lợn sẽ không dừng lại ở biểu tượng an nhàn,
no đủ mà chắc hẳn sẽ là một bước đột phá cho sự giàu có, mang thương hiệu Việt
bước vào thị trường hội nhập quốc tế.
Năm mới đang cận kề, mùa xuân đang về
khắp mọi ngã. Mùa xuân của đất trời, mùa xuân của những vùng nông thôn mới,
làng mẫu vườn mẫu hòa quyện với những khu đô thị văn minh. Xuân này lại là mùa
xuân của năm Hợi, hy vọng nó không chỉ mang lại một năm an lành hạnh phúc cho
những người có tuổi Hợi, mà còn đưa đến cho mỗi con người Việt những niềm vui,
tận hưởng những đổi thay kỳ diệu do vận hội mới, thời đại mới từ năm Hợi ban
tặng, khi chúng ta đang quyết tâm đột phá vào cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 của nhân loại. /.
--------------------------
(1) Xem Tục ngữ và ca dao Việt Nam , NXB
Giáo dục, 1999 (tái bản lần thứ 5)
(2) Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hà Tĩnh Tập 2, nxb
CTQG-ST, H, 2014 trang 123