Thứ Bảy, 13 tháng 11, 2021

Công tác tham mưu nhân tố quyết định vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.

 

      Trong suốt chiều dài lịch sử của mọi triều đại, mặc dù có nhiều tên gọi, cấp độ khác nhau; song đều cho thấy vai trò quan trọng của đội ngũ làm công tác tham mưu. Công tác tham mưu tốt thì triều chính bền vững; ngược lại không sử dụng tốt tham mưu đôi khi dẫn đến sự sụp đổ một chế độ thống trị.

      Dưới các triều đại phong kiến có Quân sư là khái niệm dùng cho người bày đặt mưu kế, vạch lối dùng binh cho người chỉ huy. Là người vạch ra cách tiến hành công việc cho người khác. Gián nghị, gián quan là quan giữ việc can ngăn nhà vua nếu vua làm việc sai trái…Sự thành công hay thất bại liên quan đến công việc tham mưu trong lịch sử, còn để lại nhiều bài học sâu sắc cho các thế hệ mai sau. Chúng ta không thể quên hình ảnh một vị quan đại thần đầu thời Lý là Tô Hiến Thành khi lâm bệnh nặng, hoàng thái hậu đến hỏi ai là người sau này có thể thay thế ông. Tô Hiến Thành đã khẳng định: nếu chọn người lo việc nước thì chọn Trần Trung Tá còn chọn người hầu hạ thì không ai hơn là Vũ Tán Đường. Rất tiếc Nhà vua không nghe nên đã để đất nước bước vào thời kỳ suy vong. Hoặc như ở đời Trần Duệ Tông 1377 khi đi đánh Chiêm Thành đã không nghe lời can ngăn tham mưu của Tướng Đỗ Lễ dẫn đến bị phục kích Nhà vua và tướng quân bỏ xác ngoài mặt trận….

  Ngày nay trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, Đảng đã rất coi trọng công tác tham mưu. Trên mỗi lĩnh vực công tác đều có các Ban, bộ phận tham mưu chuyên trách từ Tư tưởng, Tổ chức, Kiểm tra, Dân vận, Nội chính đến Văn phòng cấp ủy.

Theo từ điển Tiếng Việt, tham mưu là “hiến kế, kiến nghị, đề xuất, đưa ra các ý tưởng độc đáo, sáng tạo, có cơ sở khoa học, các sáng kiến, các phương án tối ưu, những chiến lược, sách lược và các giải pháp hữu hiệu cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc đặt ra và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác ngắn hạn, dài hạn, hàng năm của cơ quan, đơn vị nhằm đạt kết quả cao nhất”. Như vậy phạm vi khái niệm tham mưu đã được mở rộng hơn nhiều so với các triều đại cũ. Các ban tham mưu của Đảng vừa có chức năng tham mưu chiến lược vừa có tham mưu sự vụ cụ thể. Ban tham mưu không chỉ làm nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy mà còn chịu trách nhiệm trước cấp ủy xây dựng kế hoạch, hướng dẫn triễn khai, tổ chức thực hiện, theo dõi kết quả, sơ kết tổng kết đúc rút kinh nghiệm, quản lý hướng dẫn các đơn vị trong khối phụ trách, các tổ chức tham mưu cấp dưới thực hiện các chủ trương, kế hoạch, nhiệm vụ do cấp ủy triễn khai. Tùy theo tính chất công việc Ban tham mưu còn có cả chức năng thay mặt cấp ủy chỉ đạo hoạt động trên một số lĩnh vực nhất định như trong lĩnh vực thông tin, tuyên truyền, báo chí… Hiểu và làm được như vậy quả là một vấn đề không hề đơn giản. Trong thực tiễn không ít các cấp ủy viên không nhận thức đúng nên đã không phát huy hết năng lực và trách nhiệm các ban tham mưu, ban hành chủ trương không sát đúng thực tiễn, dẫn đến việc triễn khai thực hiện gặp khó khăn, có khi phải quay trở lại ban đầu. Như vậy nếu công tác tham mưu tốt thì mọi hoạt động lãnh đạo của cấp ủy thành công, trôi chảy. Nếu tham mưu không tốt thì hoạt động cấp ủy gặp khó khăn, thậm chí gây hậu qủa nghiêm trọng làm giảm sút niềm tin của quần chúng với Đảng.

 Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: Tham mưu mà làm việc theo kiểu dĩ hòa vi quý, cố làm đẹp lòng cấp trên bằng bất cứ giá nào thì chỉ có hại cho quốc kế dân sinh”. Chỉ riêng đầu mối công tác Văn phòng Bác Hồ cũng đã hết sức coi trọng về chế độ thông tin: Tết Nguyên đán năm 1950 khi Người đến thăm Văn phòng Trung ương Đảng tại Chiến khu Việt Bắc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Công tác Văn phòng có tầm quan trọng đặc biệt, giúp cho cán bộ lãnh đạo nắm được tình hình. Cán bộ Văn phòng nắm tình hình sai thì lãnh đạo sẽ giải quyết công việc không đúng....cho nên phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, năng lực công tác và giữ bí mật, để phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao”. 

 Sau ngày giải phóng miền Nam, cả nước thống nhất cùng đi lên con đường xây dựng xã hội mới. Đảng ta lại càng coi trọng công tác tham mưu. Mỗi lĩnh vực công tác đều có các Ban tham mưu của Đảng chuyên trách theo dõi để giúp các cấp ủy Đảng làm tốt công việc lãnh đạo phong trào cách mạng. Chỉ riêng lĩnh vực tư tưởng (Ban Tuyên giáo hiện nay) đã có ba ban phụ trách đó là Ban Tuyên huấn, Ban Khoa giáo và Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng. Các cán bộ của Ban hầu hết là những người được đào tạo và có kinh nghiệm thực tiễn.

Trong thời kỳ đổi mới hôm nay, khi đội ngũ cán bộ công chức viên chức đã quá lớn , thực hiện chủ trương tinh giảm biên chế, xây dựng bộ máy gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả thì các ban của Đảng cũng được rút gọn tối đa. Tuy vậy nhìn vào thực tiễn cuộc sống với hoạt động tham mưu cho cấp ủy chúng ta không thể không nhận thấy những điều bất cập. Trong đó đáng chú ý nhất là chất lượng tham mưu, đội ngũ cán bộ và cơ chế tham mưu giữa các ban của Đảng.

    Về chất lượng công tác tham mưu: Dưới tác động của cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều đáng quan tâm nhất là hệ thống thông tin chính xác kịp thời đến cấp ủy. Đảng đã có nhiều hình thức hoạt động thông tin như chế độ báo cáo định kỳ, hệ thống báo cáo viên, dư luận xã hội, báo chí truyền thông…tuy vậy vẫn không tránh khỏi sự chi phối của bệnh thành tích, lợi ích cục bộ, lối làm việc hời hợt qua báo cáo thiếu chiều sâu thực tiễn. Do đó nhiều vụ việc chỉ khi báo chí lên tiếng mới được làm sáng tỏ, hoặc như khi triễn khai thực hiện mới phát hiên được không hợp lý của chương trinh, mục tiêu do cấp ủy thông qua. Đã có những loại việc cấp trên hướng dẫn một đàng cấp dưới triễn khai một nẻo, không tuân thủ nguyên tắc chung; gọi là sáng tạo nhưng thực chất là thiếu nghiêm túc…

 Về đội ngũ cán bộ tham mưu: Cán bộ tham mưu của Đảng cần thiết phải có bản lĩnh  vững vàng, trung thực; ít tham muốn về vật chất, tâm huyết và có trách nhiệm cao với với công việc; tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân; có trình độ và năng lực, với tầm nhìn xa trông rộng; phương pháp làm việc khoa học, có thể phân tích, phát hiện dự báo tình hình, từ đó hiến kế chủ trương cho cấp ủy. Trước đây cán bộ tham mưu của các ban Đảng thường được điều động từ những cán bộ có chuyên môn giỏi, cán bộ đầu ngành có năng lực thực tiễn. Đây là điều kiện tiên quyết để cán bộ tham mưu không chỉ nắm chắc tình hình, mà không bị chủ nghĩa thành tích làm khuynh đảo khi báo cáo phán ánh với cấp trên. Có một vấn đề hết sức quan trọng mà cán bộ tham mưu cần quan tâm đó là tinh thân miệt mài tích lũy, cần mẫn trong học tập nghiên cứu lý luận chính trị, đường lối chính sách của Đảng và kiến thức cơ bản đa ngành. Có như vậy người cán bộ tham mưu mới có thể tiếp cận được mọi mặt cuộc sống. Giờ đây khi mà cuộc cách mạng công nghệ phát triển, nhiều cán bộ đã miệt mài trên từng trang mạng với nhiều ham muốn mà quên đi việc cần thiết nắm vững những cốt lõi những vấn đề quan điểm đường lối của Đảng và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra với phận sự của mình. Điều này dẫn đến cán bộ có tuổi tác cao nhưng không từng trãi. Không đưa ra được những kế sách tham mưu có giá trị cao.

 Về cơ chế tham mưu giữa các ban Đảng: Một cấp ủy mạnh nhất thiết phải có bộ máy tham mưu giỏi. Mọi việc cuối cùng do cấp ủy quyết định nhưng nếu có ban tham mưu tốt thì ý kiến thẩm định cuối cùng phải từ ban tham mưu đồng thuận đệ trình. Như thế mọi phần việc trước khi đưa ra trình cấp ủy đã phải qua ban tham mưu chuyên môn xem xét thẩm định. Khi còn ý kiến khác nhau thì chủ trì cấp ủy quyết định cuối cùng. Điều này không những giúp cho cấp ủy sử dụng tối đa trí tuệ tập thể của ban tham mưu mà còn thúc đấy ban tham mưu không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình để không phải từ ban tham mưu trở thành ban giúp việc và chạy theo phục vụ ý định của cấp ủy. Trong thực tế đã có nhừng cấp ủy do không tập trung xây dựng chất lượng ban tham mưu nên mọi công việc từ các ban tham mưu đều chuyển về văn phòng cấp ủy thẩm định sữa chữa. Ban tham mưu trở thành ban giúp việc cho Văn phòng cấp ủy là một cơ chế làm thui chột trí tuệ và trách nhiệm tham mưu cho Đảng….

       Cổ nhân xưa có dạy: “Thần thiêng nhờ bộ hạ”. Một cấp ủy dù có năng lực đến mấy cũng không thế nắm bắt và am hiểu tường tận mọi lĩnh vực bằng đội ngũ những người tham mưu chuyên môn các lĩnh vực ấy. Bởi vậy hơn lúc nào hết để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng thì việc quan trọng hàng đầu là chăm lo củng cố các ban tham mưu của Đảng. Bởi chính các ban tham mưu của Đảng là nhân tố quyết định vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng./.

 

                                                                                      10 - 2021

 

 

Thứ Sáu, 15 tháng 10, 2021

Cờ Tổ quốc những điều nên biết

 

          Cờ Tổ quốc (quốc kỳ) - lá cờ đỏ sao vảng biểu tượng của Quốc gia Việt Nam là báu vật thiêng liêng, cao quý của mỗi người dân nước Việt. Bởi vậy hiểu biết sâu sắc về lá cờ Tổ quốc là việc rất cần thiết với mỗi chúng ta.

      Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, trong các cuộc đấu tranh đã xuất hiện lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh nhưng được lồng trên hình búa liềm. Năm 1940, Xứ uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Nam Kỳ họp quyết định khởi nghĩa, đã thực hiện di huấn của đồng chí Trần Phú lấy cờ đỏ sao vàng làm lá cờ khởi nghĩa.

    Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu xác thực về người mang hình mẫu lá cờ từ nước ngoài về nước. Nhưng theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì người được tổ chức giao nhiệm vụ vẽ lá cờ đỏ có sao vàng 5 cánh để làm lá cờ hướng lệnh trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống thực dân Pháp vào ngày 23 tháng 11 năm 1940 là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến. Sau đó đồng chí bị địch bắt và xử bắn cùng các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa trong đó có cả Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần và Hà Huy Tập…Như vậy lá cờ đỏ sao vàng chính thức xuất hiện và được tung bay lần đầu tiên trên đất nước ta vào cuối năm 1940. Ý tưởng của lá cờ được đồng chí Nguyễn Hữu Tiến Khắc họa rõ nét trong bài thơ do ông để lại:

“Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ, nông, công, thương, binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh…”

Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định: “Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 dù thất bại, nhưng nó đã để lại cho toàn thể dân tộc ta một báu vật tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh cách mạng anh dũng, cho hy vọng tràn đầy của nhân dân vào tương lai xán lạn của dân tộc. Đó là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh – lá cờ của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ và sau này là quốc kỳ Việt Nam”.

    Tháng  5/1941 tại Cao Bằng, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương VIII quyết định thành lập tổ chức Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) - Đoạn mở đầu trong Chương trình Việt Minh ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ”. Đây là văn bản đầu tiên viết về lá quốc kỳ ở nước ta.

    Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào, Tuyên Quang đã quyết định Quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ, ở giữa có một ngôi sao vàng năm cánh.

 

 Thực hiện nghiêm chương trình Việt Minh, và quyết nghị của Đại hội Quốc dân Tân Trào, ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, ngày 5 tháng 9 năm 1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký ban hành Sắc lệnh số 5 về việc ban hành Quốc kỳ Việt Nam, trong đó Quốc kỳ có “hình chữ nhật, bề ngang hai phần ba bề dài; nền màu đỏ tươi, ở dữa (giữa) có sao năm cánh màu vàng tươi.” (1)

Quốc kỳ đã được Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 ghi vào Hiến pháp: "Quốc kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh". Trong cuộc họp Quốc hội khóa I ngày 2 tháng 3 năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:  “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ  quốc ca”…

     Từ  năm 1955, vẫn những màu sắc chủ đạo (màu đỏ, màu vàng), vẫn hình tượng quen thuộc – lá cờ và ngôi sao vàng năm cánh mập mạp, Quốc hội Việt Nam đã thống nhất thông qua việc sửa ngôi sao vàng bên trong lá cờ để phù hợp với thời đại và hình ngôi sao ấy trở nên thon gọn, nhẹ nhàng, thanh thoát, vững chãi hơn cho mãi đến hôm nay.

      Như vậy có được lá cờ tổ quốc hôm nay để làm biểu tượng cho quốc gia Việt Nam, là thành quả của một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ và sự hy sinh xương máu của biết bao anh hùng liệt sĩ đất nướcc ta. Chủ tịch Hồ chí Minh đã nói: “Máu đào của các liệt sĩ đã nhuộm lá cờ cách mạng càng thêm đỏ chói”. Với ý nghĩa cao đẹp đó, khác với tất cả mọi lá cờ khác như cờ hiệu, cờ vui, cờ các đoàn thể .v.v…cờ tổ quốc là linh thiêng và cao quý nhất. Trong cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược người dân luôn trung thành gìn giữ và bảo vệ lá cờ; thà chết chứ nhất định không chịu bước qua lá cờ tổ quốc. Ngày nay trong quan hệ quốc tế ai xúc phạm lá cờ tổ quốc khác là xúc phạm danh dự quốc gia, không thể nhân nhượng. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Cờ tổ quốc được Hiến pháp quy định kích cở, màu sắc và quy cách sử dụng.

    Chẳng hạn:  Khi lá quốc kỳ được treo cùng với các quốc kỳ của quốc gia khác, tất cả các lá cờ phải có kích thước xấp xỉ bằng nhau và phải được treo ở cùng độ cao, mặc dù quốc kỳ của quốc gia chủ nhà có thể được đặt ở vị trí danh dự (ở trung tâm của số lẻ các cột cờ hoặc ở ngoài cùng bên phải của số chẵn các cột cờ).  Khi lá quốc kỳ được treo cùng với những lá cờ khác, nó phải được kéo lên đầu tiên và hạ xuống cuối cùng….

     Rất tiếc, ở một số vùng dân cư, địa phương chưa hiểu rõ giá trị thiêng liêng của cờ tổ quốc. Thậm chí cho rằng treo cờ Tổ quốc chỉ là để làm đẹp phố phường nên thông báo yêu cầu người dân treo liền nhiều dịp lễ, nhiều ngày. Hàng cờ bạc màu, thủng rách, xoắn cột, người dân không còn biết treo cờ ngày gì nữa thì thật phản cảm và không còn ý nghĩa.

    Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch nước ta đã có  Hướng dẫn 3420/HD-BVHTTDL ngày 2-10-2012 về việc sử dụng quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hướng dẫn cụ thể về hình dáng, tỷ lệ kích cở chiều ngang chiều rộng, cách treo và thời gian treo chờ Tổ quốc. Trong đó: Trụ sở Phủ Chủ tịch, trụ sở Quốc hội, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trụ sở Chính phủ, TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán Việt Nam tại các nước, cột cờ Hà Nội, trụ sở UBND các cấp (trừ UBND phường ở thành phố, thị xã), các cửa khẩu và cảng quốc tế treo quốc kỳ 24/24 giờ hàng ngày. Trụ sở các bộ, cơ quan ngang bộ, các đơn vị vũ trang, nhà trường treo quốc kỳ từ 6 giờ đến 18 giờ hàng ngày.  Cờ treo phải đúng  quy định về kích cở màu sắc có độ nghiêng 35 hoặc 45 độ so với điểm treo để lá cờ buông phẳng. …Trong các khu dân cư chỉ treo vào dịp các ngày lễ trọng của đất nước và do chính quyền địa phương quy định. Thêm vào đó năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/2017/NĐ-CP để xử phạt các hành vi treo cờ không đúng quy định: Mức xử phạt 3 - 5 triệu đồng ….

         Như vậy Nhà nước ta đã có một thái độ tôn trọng rất rõ ràng về lá cờ Tổ quốc bởi nó không chỉ là biểu tượng đơn thuần của một quốc gia mà chính sự tung bay của lá cờ còn cho thấy sức sống, niềm tự hào, sự vinh quang của cả dân tộc trước thời đại mới. Mọi người dân chúng ta luôn hướng tới việc đem sức lực trí tuệ để cống hiến cho đất nước, góp phần làm cho lá cờ tổ quốc luôn rạng rỡ sắc màu mà không bị phai nhạt trước mọi thử thách. Hơn thế mỗi khi sử dụng lá cờ Tổ quốc phải biết trân trọng, không vì thành tích hình thức mà làm cho lá cờ phai màu, rách nát, cuốn xoắn vo tròn…để khỏi chạnh lòng với các bậc tiền nhân./.

 

                                                                                             9-2021

--------------------------------------

(1)  Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 01, tờ 5.)

 

 

 

Thứ Năm, 9 tháng 4, 2020

Giỗ tổ Vua Hùng những điều nên biết


    Lễ hội giỗ tổ Vua Hùng là một hoạt động để chúng ta thấu hiểu hơn công lao to lớn của các bậc tiền nhân đã có công  dựng  nước. Lễ hội cũng là một dịp tốt để chúng ta khơi dậy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”; cùng nhau chung sức chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh.
               Từ xa xưa người dân nước Việt ta vẫn luôn khuyên nhau:
                                    “Dù ai đi ngược về xuôi
                            Nhớ ngày giỗ tổ mòng mười tháng ba”
          Thế nhưng có bao nhiêu đời vua Hùng  và tại sao lại lấy ngày 10 tháng 3 làm ngày giỗ tổ thì không phải mọi người đã biết.?
         Theo sách "Thế thứ các triều vua Việt Nam" của tác giả Nguyễn Khắc Thuần thì các triều đại Vua Hùng từ khoảng năm 2.879 TCN (trước công  nguyên) đến năm 258 TCN  có ghi danh 18 vị Vua Hùng như sau: Kinh Dương Vương; Hùng Hiền vương (còn được gọi là Lạc Long Quân. Huý là Sùng Lãm); Hùng Lân vương; Hùng Diệp vương; Hùng Hi vương1; Hùng Huy vương; Hùng Chiêu vương; Hùng Vĩ vương; Hùng Định vương; Hùng Hi vương 2 (nhưng chữ "hi" trong tên gọi này và tên gọi ở trên khác nhau về tự dạng và ý nghĩa); Hùng Trinh vương;  Hùng Vũ vương;  Hùng Việt vương;  Hùng Anh vương;  Hùng Triệu vương;  Hùng Tạo vương;  Hùng Nghị vương và Hùng Duệ vương. Cuối sách tác giả cũng đã khuyên chúng ta rằng 18 vị vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi (nhánh/ngành), mỗi chi này có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu.
         Trong bản Thần tích xã Vi Cương (Phú Thọ) ghi chép khá rõ về các đời vua với những thông tin liên quan, theo đó 18 ngành vua Hùng có tất cả 180 đời vua nối nhau trị vì: "Tính trong 18 chi đời vua Hùng truyền ngôi đại bảo cho 180 đời đế vương, sơn hà quy về một mối, kiến lập  được 122 thành điện. Tổng cộng các năm của 18 đời Thánh vương di truyền ngôi cho các triều thánh tử thần tôn là 2.622 năm…, sinh được 986 chi, các hoàng tử công chúa sinh được 14.378 cháu chắt miêu duệ, cai trị khắp đầu non góc biển trong nước, vạn cổ trường tồn, mãi mãi không bao giờ dứt".
   Theo Ngọc phả Hùng Vương chép vào thời Hồng Đức hậu Lê thì: từ thời nhà Đinhnhà Tiền Lênhà Lýnhà Trần rồi đến Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền, ở đất tổ. Nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của các đấng Thánh Tổ xưa. Ngày giỗ Hùng Vương đã được các triều đại phong kiến công nhận là một trong những ngày quốc lễ của Việt Nam. Từ thời xưa, các triều đại quân chủ và phong kiến Việt Nam đã quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ.  Đổi lại, dân địa phương được triều đình miễn cho những khoản như  thuế ruộng,  sưu dịch và việc sung vào lính.
  Chính vì các triều đại Vua Hùng tồn tại khá dài như vậy nên việc thờ cúng ngày giỗ tổ về sau cũng được tổ chức khá rầm rộ kéo dài kèm theo lễ hội.  Người dân địa phương tổ chức lễ hội qua nhiều ngày triền miên để tận hưởng niềm vui, tỏ lòng biết ơn công lao các đức thánh tổ để lại. Có nơi lễ hội diễn ra hàng tuần kèm theo các hoạt động vui chơi, văn hóa cộng đồng mà tập trung nhất là từ ngày 8 đến ngày 11.  Xét thấy điều này không phù hợp, Tuần phủ Phú Thọ ông Lê Trung Ngọc vào năm 1917 (Niên hiệu Khải Định năm thứ nhất) đã làm bản tấu trình lên Bộ Lễ, xin định lệ lấy ngày 10/3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (tế lễ của cả nước) .
Từ đó về sau, cứ vào ngày 10/3 nhân dân cả nước lại hướng về vùng đất Cội nguồn - xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ để tôn vinh công lao của các vị vua Hùng.
  Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi dự lễ giỗ tổ Hùng vương. Chính phủ đã  ra Sắc lệnh, xem ngày 10 tháng Ba là một trong những ngày lễ chính thức của quốc gia.
Năm 1946, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng thay mặt Chính phủ lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng, đã dâng 1 tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm tế cáo với Tổ tiên về đất nước đang bị thực dân Pháp xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
      Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối; bên cạnh việc tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh và từng  bước xây dựng cơ sở vật chất cho một xã hội mới; Chính phủ đã lo tới việc tổ chức giỗ tổ hàng năm sao cho tương xứng với tầm vóc của một ngày lễ trọng.
     Từ năm 2001, Chính phủ ra nghị định 82/2001/NĐ-CP về việc quy ước lễ hội đền Hùng, giỗ tổ Hùng Vương là ngày quốc lễ. Năm 2007, Quốc hội đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
  Ngày 6/12/2012, UNESCO đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ”, biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết, truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
       Việc tổ chức lễ hội vào các năm chẵn, năm lẻ và chế độ đãi ngộ đối với người làm việc ngày giỗ tổ cũng được quy định ngày càng cụ thể để thuận tiện cho các địa phương và nhân dân cả nước có điều kiện tham gia ngày hội lớn của dân tộc – ngày giỗ tổ Vua Hùng.  
           Tham gia lễ hội giỗ tổ Hùng Vương không chỉ là việc làm cần thiết, tỏ lòng tri ân các vị Vua Hùng đã có công xây dựng đất nước và để lại cho chúng ta hôm nay; mà còn thể hiện việc ghi nhớ lời căn dặn linh thiêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vua Hùng đã có công dựng nước- Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” ./.
                                                                                               3-2020

Năm Tý, nói đôi điều về loài chuột và năm chuột



    Các nhà  nghiên cứu thế giới cho rằng: Chuột là một siêu họ cực lớn, bao gồm 6 họ, 19 phân họ, chừng 280 chi và ít nhất có1300 loài. Có thể kể đến một số loài chuột như chuột sóc gai, chuột sóc lùn, chuột tre, chuột chũi, chuột công đuôi trắng, chuột xạ , chuột cát, chuột đá, chuột mắt xích, chuột nhắt, chuột  nhà, chuột đồng, chuột cống .v.v…Có loại nhỏ như chuột nhắt, nhưng cũng có cả chuột khổng lồ- “siêu chuột” nặng tới hàng chục ki lô gam. Như chuột lang nước đã từng xuất hiện ở Brazin nặng tới 91kg.
    Chuột là loài gặm nhấm, tuổi thọ ngắn nhưng lại đẻ rất nhiều. Tuổi thọ của mỗi con chuột thường chỉ từ 5 tháng đến 18 tháng. Con chuột sống lâu nhất cũng chỉ đến vài ba năm. Tuy nhiên để bù lại, chuột có khả năng sinh đẻ rất cao.  Chuột cái bắt đầu sinh con khi được 45 ngày tuổi. Mỗi năm có thể sinh sản được 3 đến 8 lứa; mỗi lứa cho ra đời 4 đến 10 chuột con. Trung bình, một chuột cái đẻ 50 con một năm. Chính vì vậy người ta ước tính số lượng chuột còn có thể đông hơn cả dân số loài người.
 Tùy từng loài chuột khác nhau, thức ăn ưa thích và nhu cầu về khối lượng thức ăn vào cơ thể chúng có khác nhau, nhưng do cấu tạo của loài động vật gặm nhấm này, chúng kiếm ăn bất cứ loại thức ăn nào mà con người sử dụng được. Chúng có thể tìm kiếm các loại lương thực, thực phẩm… cũng như việc cắn phá một số đồ dùng của con người. Chuột thường ăn 15-20 lần một ngày và ăn tất cả những gì mà con người có thể ăn. Tuy nhiên, món ăn ưa thích của mỗi loài chuột khác nhau. Chẳng hạn như chuột đồng thích ngũ cốc và côn trùng, chuột nhà thích thực phẩm, củ, quả… Ngoài ra, chuột còn gặm cả gỗ, giấy, đồ nhựa bởi vì răng của chúng mọc dài ra hàng ngày. Nếu không gặm nhấm để mài bớt đi thì răng sẽ dài ra, che hết miệng không ngậm lại được.
  Chuột phá hoại lương thực của chúng ta trên đồng ruộng, vườn cây trái, các thức ăn của người, gia cầm, gia súc, trong khi đang chế biến, vận chuyển hay cất giữ, khi để trong siêu thị, nhà hàng hay tại gia đình. Những gì chúng không ăn, chúng cũng có thể làm hư hại, làm ô nhiễm do phân, lông hay nước tiểu của chúng.
Cái đuôi chuột có một sức mạnh đáng nể. Một con chuột cống cần lương thực sống khoảng từ 50 đến 100g mỗi ngày. Một thành phố có khoảng trên dưới 10 triệu con chuột thì mỗi năm sẽ mất khoảng 20.000 tấn lương thực, thực phẩm cho chuột.
Chỉ riêng về số lượng Lương thực bị thiệt hại trên toàn thế giới do chuột gây ra đã thật kinh khủng. Các chuyên gia ước tính số lương thực do chuột tiêu hủy mỗi năm đủ để nuôi 200 triệu người.
Trong các tòa nhà, chuột có thể cắn phá cửa, sàn, trần và các bức tường ốp lát cách nhiệt. Chúng còn thường xuyên cắn phá các loại đường ống nước hay dây điện… gây ra các tai nạn như hỏa hoạn, ngập lụt, cháy nổ, hỏng hóc các trang thiết bị hay làm hao hụt điện. Và trong thời buổi kỹ thuật công nghệ cao ngày nay, chuột có khả năng gây thiệt hại nhiều triệu đô la một cách bất ngờ ở những khu vực sản xuất do chúng cắn phá làm tổ hay thải chất thải trong máy tính và các trang thiết bị có độ nhạy cảm cao, làm ngưng hệ thống hoạt động. Bên cạnh thiệt hại trực tiếp về kinh tế (bao gồm cả chi phí y tế) thì chúng ta còn phải chi phí rất tốn kém cho việc kiểm soát chuột. Riêng ở Mỹ, chi phí hàng năm cho chương trình kiểm soát chuột là khoảng 120 triệu đô la. Trên toàn thế giới, chi phí cho việc kiểm soát chuột có thể lên tới nhiều tỷ đô la.
   Vì luôn đi sát cuộc sống con người, gần như bất cứ nơi nào có con người sinh sống thì nơi đó đều có chuột tìm đến. Chuột có thể truyền bệnh cho người hoặc phá hoại tài sản đồ dùng  của người, làm mất đi không khí yên tỉnh của cuộc sống; cho nên chuột trở thành đối tượng thù địch của người. Con gười đã phải tìm mọi cách để ngăn chặn sự phá hoại và sáng tạo ra biết bao thứ vũ khí lợi hại để xua đuổi và tiêu diệt lũ chuột phá hoại. Từ việc sáng chế ra bã chuột, máy đuổi chuột đến các kiểu bẫy chuột khác nhau như bẫy đập, bẫy sập, thùng rơi, súng bắn cao su….. và đã tìm ra hàng chục loại chất liệu mùi vị để xua đuổi chuột một cách tích cực nhất như tỏi, ớt cay, bạc hà, dấm, quế, khoai tây nghiền hoặc cơm nguội trộn với bột Baking soda, bột xi măng.v.v…. . Trong đó đã có những sáng chế có tên tuổi vượt ra khỏi biên giới quốc gia như tác giả của bẫy đập chuột hình bán nguyệt nay đang được mọi người ưa chuộng.
    Chính vì sự đồng hành của các loài chuột nên các nhà ngiên cứu sử học cũng đã từng theo dấu vết di cư của chuột để tìm kiếm các nẻo đường di cư của loài người. Điều đáng nói hơn là do cấu tạo của cơ thể chuột, các nhà y học đã từng dùng chuột để nghiên cứu, thử nghiệm thành công của nhiều loại thuốc chữa bệnh cứu người. Chuột trở thành tác nhân có nhiều đóng góp cho sự tiến hóa của y học qua các thời đại.
   Trong thế giới loài vật, chuột  có khả năng đặc biệt, chịu đựng được liều phóng xạ cao hơn các động vật khác; là bậc thầy về đấu tranh sinh tồn. Mỗi gia đình loài chuột có khá đông nhân khẩu, tồn tại theo kiểu đa đại đồng đường, đứng đầu là một Đại lão, có tổ chức hẳn hoi. Về thể lực, chuột có thể chạy marathon một mạch đường dài 15 km. Khi gặp nguy hiểm, chuột còn tài đu bám ngửa bụng lên trời và trong trường hợp khẩn cấp, chuột có thể leo thoăn thoắt theo phương thẳng đứng trên mặt tường hoặc bò theo phương nằm ngang theo mặt trần nhà. Chuột cống lớn có thể nhảy vọt lên cao đến 1,5 m gấp mấy chục lần chiều cao bản thân. Ấy là chưa kể tài bơi lội như rái cá dưới nước của chuột. Tính cộng đồng của chuột rất cao. Đã có chuyện kỳ lạ xẩy ra: “chuột tự sát tập thể” . Vào đầu tháng 5, năm 1995  ở vùng Tân Cương, Trung Quốc, trên một vùng rộng khoảng 10.000km2. Chuột kéo đến các ao hồ, từng đôi một cắn đuôi nhau lao mình xuống nước chết. Chỉ sau vài ngày, các hồ ao trong vùng, xác chuột nổi kín mặt nước….
 Có một điều không thể không nhắc tới đó là: chuột thuộc động vật thông minh, nhạy cảm, nhanh nhẹn, tháo vát nên được con người xếp đứng đầu của 12 con giáp. Năm tý trở thành biểu tượng của những điều hanh thông, có dấu ấn lịch sử. Rất nhiều sự kiện xẩy ra trong các năm Tý để đời trong sử sách:
Năm Canh Tý 40, mùa xuân, hai chị em Trưng Trắc - Trưng Nhị lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống ách đô hộ của nhà Hán, giải phóng đất nước và thiết lập chính quyền tự chủ.
Năm Giáp Tý 544, tháng 2, sau khi chiến thắng quân  xâm lược, Lý Bí lên ngôi, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, củng cố kinh tế, phát triển văn hóa, xây dựng chính quyền và pháp luật.
Năm Mậu Tý 1288, mùa xuân, quân đội nhà Trần đánh tan 30 vạn quân Nguyên Mông lần thứ ba xâm lược, chấm dứt sự xâm lược Đại Việt của đế chế Nguyên Mông.
 Năm Bính Tý 1396, Hồ Quí Ly cải cách sâu rộng các lĩnh vực giáo dục, văn hóa và tài chính. Tháng 5, ban hành tiền giấy đầu tiên ở nước ta.
 Năm Giáp Tý 1804, tháng 3, nhà Nguyễn đặt quốc hiệu là Việt Nam. Cũng năm này, Nguyễn Du viết xong Truyện Kiều.
Năm Giáp Tý 1924, ngày 17-6, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản.
Năm Bính Tý 1936, Ngày 1-10, hoàn tất xây dựng tuyến đường sắt xuyên Việt và Đông Dương.
Năm Mậu Tý 1948, ngày 20-1, đợt phong quân hàm đầu tiên cho các tướng lĩnh, đánh dấu sự trưởng thành của quân đội cách mạng VN.
Năm Nhâm Tý 1972, ngày 29-12, quân dân Hà Nội làm thất bại cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm bằng máy bay B52 của Mỹ. Đây là đòn quyết định đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, mở ra thời cơ chiến lược lớn để tiến hành cuộc tổng tiến công chiến lược nổi dậy mùa xuân 1975, kết thúc chiến tranh xâm lược của Mỹ, lập lại hòa bình ở VN.
Năm Bính Tý 1996, Ngày 7-12, Hoàng Thị Minh Hồng - người VN đầu tiên thám hiểm châu Nam cực, đánh dấu một son mới, cơ hội mới cho người Việt Nam vươn lên cùng nhân loại…v.v….. 
    Năm Hợi đã qua năm Tý đang về, khắp nơi trong cả nước đang chờ đón một mùa xuân mới với những điều kỳ diệu. Đó là năm cả nước tiến hành Đại hội Đảng các cấp đánh dấu bước phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội sau ba mươi lăm năm tiến hành công cuộc đổi mới. Bộ mặt nông thôn mới, đô thị văn minh đã được khẳng định qua nhiều điển hình tiên tiến trong cả nước nói chung, Hà Tĩnh nói riêng. Toàn dân phấn khởi tin tưởng về những kết quả trong công cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng. Nhiều vụ trọng án được kết thúc. Một số “chuột” lớn trong Đảng đã được xét xử nghiêm minh đúng người đúng tội. Đây là một tín hiệu đáng mừng, vừa là đòn cảnh tỉnh cho những người cơ hội, hám lợi lỡ lối quay về góp sức cùng nhân dân xây dựng quê hương đất nước theo đúng mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng” mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn./.

                                                                                   1-2020


Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2019

Con lợn trong đời sống người Việt


    Tùy phong tục và tập quán mỗi vùng miền, con lợn được người dân gọi bằng những tên gọi khác nhau như lợn, ỉn, heo, trư hợi… Con lợn là vật nuôi phổ biến, gần gủi và gắn bó lâu đời với đời sống người Việt.
   Mặc dù Hợi là con vật biểu tượng cuối cùng trong bảng 12 con giáp, nhưng lợn lại là một trong những gia súc có quan hệ mật thiết với con người cùng chó, mèo trong mỗi gia đình. Đối với cuộc sống người Việt, mỗi một loại vật nuôi đều có một mục đích riêng. Mặc dù chăn nuôi gắn liền với trồng trọt và sự tác động qua lại giữa chăn nuôi với trồng trọt là hai mặt không tách rời nhau trong mọi cộng đồng dân cư. Thế nhưng ngày xưa mọi vật nuôi đều có nhu cầu giết thịt làm các món ăn cho người. Lâu dần tạo thành thói quen, mỗi loại vật đều gắn với những gia vị quen thuộc như:
                     Con gà cục tác lá chanh
                     Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
                     Con chó khóc đứng khóc ngồi
                     Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng (1)
      Khác hẳn với chó, mèo là những con vật nuôi còn có phận sự giúp việc cho người. Chó để giữ nhà, dẫn đường, săn thú…; mèo để bắt chuột bảo vệ mùa màng, lương thực… còn lợn chỉ biết ăn, ngủ, sinh sản và hưởng thụ sự phục vụ của con người. Vì thế lợn được xem là vật nuôi lười và kém thông minh nhất. Khái niệm  “ngu như lợn” được ra đời từ đó để người ta ám chỉ những người không biết tư duy, linh hoạt, chủ động sáng tạo trong cuộc sống. Nhưng ngược lại cũng vì thế con lợn được xem là biểu tưởng của cuộc sống an nhàn, hưởng thụ, no đủ và sự sinh sôi nẩy nở một cách sung mãn nhất. Người Việt còn có quan niệm rằng: người được sinh ra vào năm Hợi là người có được vận may, sống nhàn hạ, không cần làm lụng vất vả-“Tuổi hợi ngồi đợi mà ăn”. Mặc dù việc nuôi lợn ở mỗi vùng miền có những nét khác nhau như lợn chuồng, lợn thả rông tự kiếm ăn, lợn tạ miền xuôi, lợn cặp nách vùng cao và ngày nay là lợn trại … Trong cộng đồng người Việt từ xa xưa, lợn  được xem là một loài vật linh thiêng, mơ ước của cuộc đời người lao động. Lợn được chọn là một loài vật dùng để tế thần, cống nạp và không thể thiếu vắng trong các ngày lễ trọng đại vui, buồn của mọi cộng đồng. Lợn được đi vào thơ ca, tạo nên những tuyệt tác trong dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng. Trước đây ở nhiều gia đình người Việt để chuẩn bị cho việc đón tết cổ truyền, người ta tìm mua và treo tranh Đông Hồ bên cạnh những câu đối đỏ, lấy đó làm niềm vui là biểu hiện của ước mơ an lành, thịnh vượng trong cuộc sống
     Trong quá trình tiến hóa của lịch sử, có người chuyên nuôi lợn đực phủ giống, lại có người chuyên nuôi lợn nái bán lợn con; tuy vậy việc nuôi lợn phổ biến vẫn là  để lấy thịt làm thực phẩm. Từ một con lợn thịt,  người ta có thế chế biến được rất nhiều món ăn ngon miệng, ưa thích, hay làm thực phẩm để dùng lâu dài. Những món ăn thời hiện đại như lạp sườn, ba tê, xúc xích, ruốc bông, bột nêm… đã xuất hiện. Con lợn có thể cung cấp nguồn thịt lớn, nên thịt lợn là nguồn thực phẩm dồi dào, có thể phục vụ được nhu cầu của số đông người. Mọi vùng thôn quê, nuôi lợn còn là một nghề quen thuộc giúp người dân tạo nên nguồn thu nhập kinh tế đáng kể để phục vụ mọi nhu cầu chi tiêu trong đời sống thường ngày.
     Trong các cuộc kháng chiến, từ việc phát triển chăn nuôi lợn, người dân các vùng hậu phương còn tạo ra một lượng thực phẩm đáng kể phục vụ cho quân đội đánh giặc ngoài mặt trận. Phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, mặc dù xa mặt trận nhưng người dân Hà Tĩnh đã huy động gần 2 ngàn tấn thực phẩm phục vụ chiến trường. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chỉ tính riêng năm 1967, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động đột xuất trong dân được một ngàn tấn thịt lợn(2) để phục vụ nhu cầu thực phẩm cho bộ đội chiến đấu.
    Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ; đất nước đi vào thời kỳ xây dựng mới trong điều kiện phục hồi sau chiến tranh. Đời sống của mọi tầng lớp nhân dân còn gặp nhiều khó khăn thì việc nuôi lợn được người dân xem như một cứu cánh giải quyết tình thế. Đã không ít người dân thành phố đưa lợn vào chăn nuôi ngay cả trong những khu chung cư cao tầng để tăng thêm nguồn thu nhập. Đây không phải là việc làm đáng khuyến khích, thế nhưng trong thực tế nhiều người qua đó đã tạo được tiền đề, phấn đấu trưởng thành. Nhiều người nhờ nuôi lợn, nấu rượu mà có nguồn kinh phí cho con ăn học đỗ đạt qua các kỳ thi, giành được những học vị cao trong khoa cử.  Đã có cả những cán bộ nghiên cứu đưa lợn vào chăn nuôi và khái niệm “lợn nuôi tiến sĩ” được ra đời từ đó. Từ việc chăn nuôi lợn, con người đã nghĩ đến việc tận dụng phế thải,  người ta đã tìm đến việc xử lý phế thải bằng những hố khí Biogas và việc sử dụng chất đốt khí đã một thời phát triển.
         Giờ đây lịch sử đã sang trang, đất nước đang trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Trong cơ chế thị trường con lợn đã vượt qua biên giới trở thành hàng hóa xuất khẩu làm giàu cho đất nước. Bám theo thị hiếu người tiêu dùng và kế thừa kết quả khảo nghiệm khoa học con người đã bắt đầu nuôi lơn quy mô lớn. Những trại lợn siêu nạc ra đời đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng và mang về nguồn lợi đáng kể cho các chủ nuôi. Con lợn không còn chỉ là biểu tượng mơ ước mà đang tham gia vào quá trình phát triển; giải quyết việc làm cho người lao động. Mới đây tập đoàn Masan đã làm lễ khánh thành Nhà máy chế biến thịt lợn có quy mô lớn ở Hà Nam. Với diện tích gần 50 ha, tổng vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng, tổ hợp nhà máy có công suất chế biến 1,4 triệu con lợn tương đương 140.000 tấn/năm.  Trong tương lai không xa; việc chăn nuôi lợn nhỏ lẻ đang được cuốn hút trở thành dịch vụ vệ tinh cho các trung tâm. Con lợn sẽ không dừng lại ở biểu tượng an nhàn, no đủ mà chắc hẳn sẽ là một bước đột phá cho sự giàu có, mang thương hiệu Việt bước vào thị trường hội nhập quốc tế.
         Năm mới đang cận kề, mùa xuân đang về khắp mọi ngã. Mùa xuân của đất trời, mùa xuân của những vùng nông thôn mới, làng mẫu vườn mẫu hòa quyện với những khu đô thị văn minh. Xuân này lại là mùa xuân của năm Hợi, hy vọng nó không chỉ mang lại một năm an lành hạnh phúc cho những người có tuổi Hợi, mà còn đưa đến cho mỗi con người Việt những niềm vui, tận hưởng những đổi thay kỳ diệu do vận hội mới, thời đại mới từ năm Hợi ban tặng, khi chúng ta đang quyết tâm đột phá vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của nhân loại. /.
--------------------------
(1)  Xem Tục ngữ và ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999 (tái bản lần thứ 5)
(2)  Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Hà Tĩnh Tập 2, nxb CTQG-ST, H, 2014 trang 123 


Thứ Ba, 30 tháng 10, 2018

Vai trò người cán bộ chiến lược trong cuộc cách mạng tháng Mười Nga


         Sự thiên tài của lãnh tụ Vladimir Ilyich Lê Nin là đã đưa cuộc cách mạng tháng Mười Nga đi vào lịch sử, mở đầu cho một thời đại mới quá độ đi lên xã hội chủ nghiã trên toàn thế giới.      
      Mọi cuộc cách mạng trên thế giới xét thấy muốn đi đến thành công đều phải được quần chúng nhân dân đông đảo đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên muốn được đông đảo nhân dân tin tưởng và quyết tâm đi theo cách mạng thì vai trò người cán bộ chiến lược có ý nghĩa quyết định nhất. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã cho thấy vai trò to lớn của Lê Nin- người cán bộ chiến lược thiên thiên tài của giai cấp vô sản Nga lúc bấy giờ.
     Ở nước Nga, sau cuộc cách mạng tháng Hai năm 1917, chế độ thống trị chuyên chế Nga Hoàng đã sụp đổ, nước Nga thành lập chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và Xô viết đại biểu công nông binh lính. Những yêu cầu khẩn thiết của nông dân về ruộng đất và việc làm cho công nhân không được chính phủ lâm thời giải quyết. Nạn đói diễn ra gay gắt trong khi chính phủ tư sản vẫn tiếp tục theo đuổi đẩy mạnh cuộc chiến tranh, lùng bắt những người đảng viên Bôn sê vích. Thời kỳ hòa bình đã chấm dứt, nước Nga bước vào thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng; các lực lượng cách mạng Nga khẩn trương chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Trong điều kiện hai chính phủ song song tồn tại như vậy sẽ dẫn đến một sự lựa chọn quyết định của người dân ủng hộ cho chính phủ nào ? Đây là bối cảnh hết sức quan trọng để lãnh tụ giai cấp vô sản Nga xúc tiến việc chuyển giai đoạn từ cách mạng tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
    Với bản Luân cương tháng Tư cùng tác phẩm Nhà nước và Cách mạng giai cấp vô sản Nga đã chuẩn bị đầy đủ những định hướng chiến lược cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và những nhiệm vụ cần kíp cho chính quyền mới sau khi ra đời. Đêm 24 tháng 10, khi thời cơ đến với khẩu hiệu: “Tất cả chính quyền về tay xô viết”; “Hòa bình, ruộng đất, bánh mì”; cuộc khởi nghĩa vũ trang của giai cấp vô sản Nga đã nổ ra và nhanh chóng giành thắng lợi. Ngay trong đêm 25 tháng 10 năm 1917 (tức  ngày 7 tháng 11 Dương lịch) , chính quyền Xô viết do ông Lê nin đứng đầu được thành lập. Các sắc lệnh đầu tiên được thông qua là Sắc lệnh hòa bình (lên án chiến tranh) và "Sắc lệnh ruộng đất" (nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân). Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao được thành lập để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hội đồng có trách nhiệm cải cách ruộng đất: xóa bỏ việc chiếm hữu ruộng đất của giới địa chủ, trao lại ruộng đất cho nông dân. Đối với công nghiệp, họ quốc hữu hóa một số nhà máy lớn, đồng thời thực hiện chính sách lao động tiên tiến: ngày làm việc 8 giờ, cấm sa thải công nhân bừa bãi, quy định chế độ nghỉ phép đối với công việc nặng nhọc. Chính quyền Xô viết còn thực hiện các biện pháp thủ tiêu tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp, những đặc quyền của giáo hội, thực hiện chính sách nam nữ bình đẳng…..
      Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa - nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Nó báo hiệu quá trình cải tạo thế giới theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu.
 Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử loài người, từ thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa. Đây là một cuộc cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay “chính quốc”, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga hoàng, mở ra thời kỳ vùng dậy không gì ngăn cản được của các dân tộc bị áp bức, giành độc lập, tự do, làm lay chuyển hậu phương rộng lớn của chủ nghĩa đế quốc khắp thế giới.
       Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã cổ vũ, lôi cuốn mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của những nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh. Thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước, như: Ba Lan, Bulgaria, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hungary, Tiệp Khắc, Albania, Mông Cổ, Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam đã tạo nên những tiền đề thực tế cho sự ra đời của một hệ thống xã hội mà trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử. Chỉ một thời gian ngắn sau khi ra đời, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã đóng vai trò chi phối với nhiều quá trình quan trọng của thế giới hiện đại.
       Hơn 100 năm đã qua, sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga không chỉ mở ra trang sử mới cho một thời đại cách mạng vô sản bùng nổ trên toàn thế giới; mà chính cuộc cách mạng đã cho thấy vai trò nổi bật của lãnh tụ Lê Nin - người cán bộ chiến lược vĩ đại của giai cấp vô sản.
      Trước hết Lê Nin là người nắm chắc học thuyết Mác, cùng với những quy luật lịch sử đấu tranh giai cấp để biết chắc chắn khi Cuộc cách mạng tư sản kết thúc sẽ dẫn đến Cuộc cách mạng vô sản với sự thay thế một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Chính Lê Nin là người kế thừa và phát triển học thuyết Mác để tiến hành xây dựng một Đảng mác xít chân chính lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản nổ ra và giành thắng lợi trong một nước đế quốc phát triển.
      Ngay sau khi trở về Nga Lê Nin đã nhanh chóng nắm bắt tâm tư nguyện vọng của công nông binh lính, công bố bản Luận cương tháng Tư, dựa hẳn vào quần chúng nhân dân lao động, trước hết là công nhân để tiến hành cách mạng thiết lập Xô viết.
       Từ thực tiễn cách mạng, Lê nin đã nhận rõ sự bất bình của người dân với chính phủ lâm thời vì nguyện vọng của người lao động không được đáp ứng. Trong khi dân chúng đói kém, chán ghét chiến tranh thì chính phủ lại tăng cường bắt lính đẩy mạnh chiến tranh, tập trung đàn áp cách mạng. Tình thế đấy nhanh thời cơ chín muồi, Người lãnh tụ đã nhanh chóng nắm lấy để phát động khởi nghĩa giành chính quyền về tay công nông.
       Cuộc khởi nghĩa nổ ra được chính Lê nin và các cộng sự chủ chốt trực tiếp chỉ đạo chặt chẽ, phối hợp sức mạnh tổng hợp của công, nông, binh lính. Lực lượng cách mạng bao gồm các đơn vị Cận vệ đỏ của công nhân Pê-trô-grát, binh sĩ cách mạng và thủy thủ Hạm đội Ban-tích; binh lính của chính phủ lâm thời quay súng hợp tác với lực lượng cách mạng đã hợp lực tấn công chính phủ phản động, bắt giữ các bộ trưởng của chính phủ tư sản A Kê ren xki để lập chính phủ Xô Viết.
       Điều vô cùng quan trọng nữa là ngay sau khi chính quyền Xô Viết được thành lập Lê nin đã đưa ra một loạt chính sách đúng đắn để duy trì và phát triển chế độ mới một cách linh hoạt tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, trong đó đáng chú ý như chính sách Cộng sản thời chiến (6/1918- 3/1921); chính sách Kinh tế mới từ 3/1921- 1929) .v.v…Chính nhờ sự tài gỏi của lãnh tụ mà cuộc cách mạng Nga không những vượt qua được mọi thử thách do các nước đế quốc tập trung tấn công vào nhà nước non trẻ mà còn tạo nên thế và lực ngày càng hùng mạnh làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.
         Thời gian đã lùi xa vào quá khứ, nhưng Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã để lại cho nhân loại nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng một bài học vô cùng quý giá đó là: muốn cách mạng giành được thắng lợi Đảng lãnh đạo phải luôn có một đội ngũ cán bộ chiến lược đủ tài năng trí tuệ và uy tín để đưa ra những quyết sách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh; nhất là khi chúng ta đang bước vào thời đại mới, hội nhập, toàn cầu hóa./.

                                                                             10-2018
 
    


Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2018

Những dấu ấn không bị mờ phai từ Cách mạng tháng Tám


      Khác với nhiều địa phương trong cả nước, Cuộc khởi nghĩa của Hà Tĩnh bùng nổ khi Đảng bộ đang gặp khó khăn nhất; hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh xuống cơ sở đã bị kẻ địch phá vỡ nhiều lần. Hầu hết, các đồng chí cán bộ, đảng viên ưu tú bị kẻ địch bắt giam giữ trong các nhà tù sau nhiều đợt vây quét khốc liệt. Trong đó, phải kể tới những thời kỳ vô cùng khó khăn như những năm sau 1930 - 1931, thời kỳ kẻ địch khủng bố đàn áp phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tiếp đến là thời kỳ sau chiến tranh Thế giới thứ II bùng nổ, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định giải tán các tổ chức nghiệp đoàn, cấm các hoạt động của Đảng Cộng sản
Thời kỳ tiền khởi nghĩa, Hà Tĩnh vẫn là nơi kẻ địch tăng cường đàn áp, khủng bố và thực hiện nhiều chính sách bóc lột tàn bạo. Thực dân Pháp một mặt phát xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp những người có tinh thần yêu nước. Mặt khác, chúng dùng thủ đoạn giả nhân, giả nghĩa lừa phỉnh Nhân dân đồng thời đẩy mạnh chính sách vơ vét sưu thuế, gia tăng sức bóc lột. Nhiều chính sách hà khắc được thực dân Pháp triển khai ở Hà Tĩnh như hạn chế việc đi lại, đọc sách báo, hội họp, mít tinh của Nhân dân. Tuyển thêm lính kín, lính khố xanh, cho mật thám giả danh làm người buôn lợn, buôn bò, ăn xin trà trộn trong dân để dò la tin tức, điều tra hoạt động cộng sản. Các phường hội như Tương tế, Ái hữu bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Những người đứng đầu các tổ chức đều bị bắt, xét hỏi, bị phạt tiền...
      Mãi đến tháng 5 năm 1940, Tỉnh uỷ lâm thời do đồng chí Trần Quỳ, Xứ uỷ Trung kỳ chỉ đạo mới được thành lập gồm 5 đồng chí.   Sau đó, một số địa phương lập lại Huyện ủy như Hương Sơn, Can Lộc, Hương Khê... Mặc dù được sự chỉ đao trực tiếp của Xứ uỷ Trung kỳ, hệ thống tổ chức Đảng ở Hà Tĩnh mới được khôi phục dần, nhưng vẫn còn rất nhỏ bé.  Sau cuộc tập kích đồn điền Ferey và việc tổ chức ám sát tên Bang tá Hồ Dũng Tài của Chi bộ Song Con, Cẩm Lĩnh (Hương Sơn) vào tháng 5-1941, thì tổ chức Đảng lại bị kẻ địch triệt phá hoàn toàn. Riêng ở Hương Sơn, chỉ 2 tháng sau vụ Bang tá Hồ Dũng Tài bị giết đã có 170 người bị bắt, 30 người bị xử bắn. Gần như đến ngày khởi nghĩa hệ thống tổ chức của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh chưa có một tổ chức lãnh đạo thống nhất.
         Khi thời cơ chín muồi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền xuất hiện thì ở Hà Tĩnh vẫn phải do Mặt trận Việt Minh đảm nhiệm mà nòng cốt là những hạt nhân của Đảng. Mặc dù dưới sự lãnh đạo của mặt trận Việt minh, song cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh cũng không giống như ở nhiều nơi khác. Trên đất Hà Tĩnh cũng chưa có một Uỷ ban khởi nghĩa thống nhất chỉ huy. Trước hết là việc cướp chính quyền đầu tiên ở huyện Can Lộc. Trong khi Việt minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh vừa họp bàn để chuẩn bị khởi nghĩa thì một nhóm thanh niên ở Can Lộc do liên lạc được với Việt Minh Hà Nội, sớm thấy được tình hình diễn biến mau lẹ đã huy động lực lượng tước vũ khí binh lính bảo an, xông vào bắt giữ tri huyện, chiếm huyện đường, sau đó phối hợp tổ chức giành chính quyền trong toàn huyện. Việt minh phân khu Nam Hà của địa phương sau khi nhận được chỉ đạo của Việt Minh liên tỉnh đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh, phát lệnh khởi nghĩa ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Thị xã Hà Tĩnh và sau đó đến Kỳ Anh. Nghi Xuân thuộc địa bàn phân khu 1 cùng với Vinh-Bến Thuỷ, Hưng Nguyên. Ở huyện Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê lại thuộc về địa bàn của phân khu 5- phân khu La-Hương-Hương, không thuộc Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh; mỗi huyện thành lập một Uỷ ban khởi nghĩa huyện do Việt Minh liên tỉnh trực tiếp chỉ đạo. Như vậy dù trong cùng một thời gian, các huyện, thị Hà Tĩnh mặc dù được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin và sự chỉ đạo khác nhau; song tất cả đã thống nhất mục tiêu, nắm bắt thời cơ giành chính quyền thắng lợi.
         Một nét đặc biệt khác về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh đó là sự giúp đỡ phối hợp giữa các lực lượng, các địa phương trong tỉnh. Trong điều kiện thông tin chưa thuận lợi, phong trào quần chúng lại được tổ chức và chỉ đạo phát triển từ trong sự kìm kẹp của chính quyền địch; nhưng chính sự thống nhất trong mục tiêu lý tưởng, sự tôi luyện trong quá trình tranh đấu đã làm cho ý chí và hành động của người Hà Tĩnh gắn kết với nhau, chung sức lật đổ bộ máy thống trị giành độc lập. Trong thực tế đã có việc bộ phận này giành chính quyền hôm trước, hôm sau bộ phận khác giành lại như ở huyện đường Can Lộc; song tất cả đều là việc giành chính quyền về tay nhân dân thoát khỏi ách xiềng xích nô lệ. Do vậy mọi việc đã diễn ra tốt đẹp, chính quyền được duy trì, cán bộ tham gia khởi nghĩa đều được điều động, bố trí thuyên chuyển, sử dụng mà không xẩy ra một sự xung khắc đáng tiếc nào. Hoặc như Hương Khê thuộc phân khu La-Hương-Hương ở xa trung tâm, thông tin chậm trễ, Việt minh ở phân khu Nam Hà đã bố trí lực lượng giúp sức cùng kéo vào tước khí giới của đồn địch ở huyện lỵ Chu Lễ, sau đó phân công huy động lực lượng, vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền.
     Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám ở Hà Tĩnh dù thế cũng đã giành thắng lợi nhanh chóng. Sức mạnh của quần chúng được khơi dậy mạnh mẽ. Mục tiêu cách mạng của Đảng đã trở thành nguyện vọng bức thiết của mọi người dân, nên khi thời cơ đến tất cả đã vùng lên giành lấy chính quyền từ tay kể thù.  Hà Tĩnh chính thức tổ chức giành chính quyền về tay công nông bắt đầu từ ngày 16-8-1945 tại Can Lộc, sau đó đã nhanh chóng được diễn ra ở khắp nơi trong toàn tỉnh. Đặc biệt là sau việc giành chính quyền ở thị xã Hà Tĩnh một cách mau lẹ vào ngày 18-8-1945 thì cơ bản chính quyền đã thực sự về tay nhân dân. Cho đến ngày 21-8 sau cuộc khởi nghĩa Hương Khê kết thúc thì tất cả các huyện thị trong tỉnh đã thành lập được chính quyền cách mạng. Chỉ trong vòng 5 ngày từ 16 đến 21-8 toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân. Hà Tĩnh trở thành một trong bốn tỉnh của cả nước giành được chính quyền cách mạng sớm nhất.
           Bảy mươi ba năm đã qua, khí phách và tinh thần cách mạng tháng Tám vẫn luôn thấm đẫm trong mỗi người dân. Càng tìm hiểu thêm về những nét đặc sắc trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám Hà Tĩnh, càng giúp mỗi chúng ta nhận rõ những dấu ấn sâu sắc không bị mờ phai theo thời gian. Phát huy tinh thần Cách mạng tháng Tám, Đảng bộ và nhân dân đã từng bước đi lên và không ngừng gặt hái những thành công trong việc giúp nhau xoá đói giảm nghèo, xóa nhà tranh tre dột nát, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Xây dựng nông thôn mới.v.v…. Ngày nay trong điều kiện hội nhập quốc tế đang tạo ra nhiều vận hội và thách thách thức mới từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Dấu ấn từ cuộc cách mạng hơn 70 năm qua càng  khắc sâu thêm niềm tự hào về truyền thống cách mạng, sức mạnh to lớn từ cội nguồn cộng đồng dân cư để cùng nhau vượt qua mọi trở ngại bứt phá, tìm kiếm những cách làm hay, sáng tạo và quyết tâm hơn trong mỗi chặng đường thực hiện công cuộc đổi mới hôm nay theo định hướng Xã hội chủ nghĩa của Đảng ./.