Ngay sau khi cuộc cách mạng tháng Tám năm
1945 giành thắng lợi; được sự giúp sức của đế quốc Mỹ, Thực dân pháp đã trở lại
đứng chân trên đất Đông Dương. Nhân dân Việt Nam ta phải tiếp tục đương đầu với
cuộc chiến đấu mới trường kỳ gian khổ.
Thực hiện lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc lại đi vào cuộc kháng chiến mới. Sau 7 năm
nổ lực phấn đấu, quân đội và nhân dân ta đã từng bước làm chủ chiến trường. Để
cứu nguy cho sự thất bại sớm, Thực dân Pháp đã quyết định tập trung xây dựng
Trung tâm cứ điểm Điện Biên Phủ với một lực lượng quân đội vũ khí phương tiện
chiến tranh hiện đại. Ở đây tập trung 16.200
quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh,
1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận
tải cơ giới. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được bố trí thành 3 phân khu Bắc,
Trung, Nam với 49 cứ điểm, huy động toàn bộ lính dù và 40% lực lượng cơ động
tinh nhuệ nhất của Pháp ở Đông Dương. Hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm mỗi
ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100 đến 150
quân, đảm bảo nguồn tiếp viện trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc bấy
giờ, như “ một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội
chủ lực của ta và là quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava. Muốn giành
thắng lợi hoàn toàn quân đội ta phải tiêu diệt được cứ điểm quan trọng này.
Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược trong cuộc đọ sức cuối cùng
của ta với địch.
Nắm được âm mưu và thủ đoạn của địch, đưới sự
lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, quân đội nhân dân Việt nam đã xây dựng kế hoạch
tác chiến hợp lý, để sau 56 ngày đêm (13-3-1954 đến 7-5-1954) từ ngày nổ súng
tấn công đến 17 giờ 30 phút ngày 7/5, lá
cờ chiến thắng được cắm lên hầm chỉ huy của địch. Quân và dân ta đã đập tan toàn
bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62
máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng của
địch. Ngày 7/5/1954 trở thành ngày kỷ niệm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong
những đỉnh cao chói lọi, kỳ tích vẻ vang và vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc ta. Nó đã tạo bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến
tranh, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng đã củng cố niềm tin tưởng của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục chiến
đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần to lớn
vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại.
Lịch sử sang trang, đất nước đã
bước vào thời kỳ xây dựng mới, hội nhập quốc tế; nhưng rất nhiều những bài học
to lớn từ chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn theo sát, sống mãi với chúng
ta trong sự nghiệp đổi mới.
1. Trước hết, đó là bài học về tiến hành chiến tranh nhân dân toàn
dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa chống giặc đói, giặc dốt,
vừa chống giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp- sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc. Trong cuộc chiến đấu không cân sức như vậy, chúng ta không thể chiến thắng
nếu chỉ đánh địch bằng nghị lực, ý chí quyết tâm mà còn phải bằng cả những điều
kiện đảm bảo về vật chất. Chúng ta không
chỉ đánh địch bằng 50.000 quân chính quy mà còn có cả sức mạnh toàn dân đánh
giặc trong cả nước. Trong chiến dịch này chúng ta đã huy động tới hơn 26 vạn
lượt dân công; 21 ngàn xe đạp thồ, 914
con ngựa thồ; 3130 chiếc thuyền; 1.800 mảng nứa
với 25.560 tấn gạo; 226 tấn muối; 1.909 thực phẩm. Chỉ tính sau 4 đợt
huy động từ 10/1953-4/1954, một địa phương xa như Hà Tĩnh cũng đã huy động gần
3 vạn dân công hỏa tuyến phục vụ chiến trường. Đây là điều kiện rất quan trọng
đảm bảo cho cuộc chiến đấu của chúng ta có thể duy trì được nhiều ngày tiêu
diệt từng bộ phận quân địch tiến tới chiến thắng hoàn toàn.
2. Bài học về sự kiên
định mục tiêu nhưng linh hoạt và sáng tạo trong từng bước đi và cách làm cụ thể.
Sau khi cục diện chiến trường thay đổi, Thực dân Pháp dồn quân xây dựng tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ chính trị
Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy hạ quyết tâm; “Mở chiến dịch tiến công tiêu
diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất
của chúng trên chiến trường Đông Dương”. Để thực hiện mục tiêu to lớn ấy,
Phương án tác chiến của chúng ta được thống nhất là “đánh nhanh, giải quyết
nhanh”: tập trung binh lực, ấn định ngày nổ súng và bằng những cuộc tấn công ồ
ạt để tiêu diệt địch trong 3 ngày 2 đêm. Thế nhưng, với tư tưởng chỉ đạo của
Bác Hồ “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không
chắc thắng, không đánh”. Từ thực tiễn
chiến trường, Bộ đội chưa quen đánh công sự trên địa hình bằng phẳng; chưa có
sự tập dượt phối hợp binh chủng; chưa quen với lối đánh ban ngày; đã sớm cho
chúng ta thấy được rằng không thể chỉ tập trung dồn quân đánh úp một trận vào
pháo đài địch để giành chiến thắng. Bộ chỉ huy chiến dịch đã quyết định chuyến
kế hoạch tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh dài ngày, “đánh chắc,
thắng chắc”. Đây là bài học linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo chiến dịch để bảm
bảo chiến thắng mà chính ngay tướng Pháp Na Va trong hồi ký của mình củng phải
thừa nhận: nếu tướng Giáp tấn công như ý định ban đầu “thì chắc chắn ông ta đã
thất bại, nhưng không may cho chúng ta, ông ấy đã nhận ra…”
3. Bài học về tinh thần chịu trách nhiệm của
người cán bộ. Bước vào chiến dịch lớn có ý nghĩa quyết định chiến trường, cho
thấy Đảng và Bác Hồ rất coi trọng công tác cán bộ. Xét thấy không thể chỉ huy
chiến dịch từ tầm xa Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đưa Tổng chỉ huy ra mặt
trận và giao quyền hạn cụ thể. Trước khi đi vào chiến dịch Người nói với Đại
tướng Võ Nguyên Giáp: “Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, cho
nên ta chỉ được thắng, không được bại, vì bại thì hết vốn”.. “Tổng
tư lệnh ra mặt trận. Tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định”(1).
Như vậy phương hướng chiến dịch đã rõ ràng, người chỉ huy đã được trao quyền cụ thể. Nhưng
chính yếu tố này đã đặt ra cho chiến dịch những chuyển biến quan trọng có ý
nghĩa quyết định. Ngay sau khi bộ chỉ huy chiến dịch họp để thống nhất phương
án tác chiến, rất nhiều tướng lĩnh đã có ý kiến khác nhau; có điều không ai dám
khẳng định tổ chức đánh nhanh thắng nhanh là chắc chắn giành thắng lợi. Điều
này buộc Tổng tư lệnh phải thay đổi phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang
phương án “đánh chắc, thắng chắc”. Đại
tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng đây là một “Quyết định khó khăn nhất trong đời
cầm quân”. Với quyết định sáng suốt, bản lĩnh và đầy trách nhiệm này đã giúp
chúng ta tránh được sự tổn hại lực lượng, góp phần làm nên sức mạnh áp đảo quân
Pháp trong trận tiến công mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ giành chiến thắng vang dội lừng lẫy năm
châu.
4. Bài học về phát huy
sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực. Chiến thắng Điện Biên Phủ còn cho chúng
ta thấy rõ một sự phối hợp tuyệt đẹp giữa sức mạnh nội lực và sức mạnh ngoại
lực được phát huy hiệu quả cao độ. Điên Biên Phủ một cứ điểm nằm tận sâu biên
giới Tây Bắc, cách xa hậu phương hàng trăm cây số đường rừng hiểm trở. Để có
thể chiến thắng được địch chúng ta đã huy động sức mạnh tổng hợp nội lực từ sức
người, sức của, phương tiện vận tải, vũ khí… không chỉ từ bộ đội, mà từ trong
nhân dân của tất cả mọi vùng miền đất nước từ vùng hỏa tuyến, vùng tạm chiếm
của địch, vùng hậu phương của mặt trận phía Bắc đến cả vùng chiến trường Nam bộ
rộng lớn. Tuy nhiên nếu chỉ có sức mạnh nội lực chúng ta không thể giành thắng
lợi quyết định. Bởi thế Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”,
chủ trương Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống bọn phản động thực dân Pháp, đoàn
kết với Miên, Lào; thân thiện với Tàu, Xiêm, ấn Độ, Nam Dương…Coi Đông Dương là
một chiến trường. Đồng thời với chiến dịch Đông Xuân Việt Nam , phối hợp tấn công địch cả mặt
trận Thượng và hạ Lào. Nhờ chủ trương đúng, chúng ta đã phát huy cao hiệu quả
sức mạnh từ ngoại lực. Chỉ từ tháng 12-1950 đến tháng 6-1954 các nước anh em đã
viện trợ cho ta 21.517 tấn vũ khí, nguyên liệu lương thực thực phẩm; 136 khẩu
pháo các loại, 715 xe ô tô vận tải…(2). Nhờ làm tốt công tác địch
vận đã có hàng ngàn người lính mang quốc tịch các nước trong quân đội Pháp bỏ
hàng ngũ về với lực lượng kháng chiến Việt Nam . Có thể khẳng định rằng chính
việc phát huy đồng bộ sức mạnh nội và ngoại lực đã làm quân đội viễn chinh Pháp
nhanh chóng thất bại, chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương. ….
Vẫn còn nhiều bài học
có ý nghĩa khác được rút ra từ chiến thắng Điện Biên Phủ; song chừng ấy đã cho
thấy giá trị trong thực tiễn công cuộc xây dựng mới của chúng ta hôm nay. Ở bất
cứ địa phương nào mà ở đó phát huy được sức mạnh tổng hợp của công đồng; phát
huy được sức mạnh nội lực và ngoại lực; những người đứng đầu địa phương, đơn vị
dám chịu trách nhiệm trước vận mệnh đất nước và đời sống nhân dân; linh hoạt,
sáng tạo trong tổ chức thực tiễn… thì nơi đó sẽ thành công và là điểm sáng điển
hình trong thời kỳ mới.
Hơn 60 năm đã qua,
niềm tự hào và dư âm của chiến thắng Điện Biên Phủ còn đọng mãi trong lòng
người dân nước Việt. Việt Nam ,
Hồ Chí Minh, Điện Biên Phủ là những tên gọi trân trọng vang vọng khắp năm châu,
bốn biển. Đặc biệt là dấu ấn của những bài học từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn
luôn tỏa sáng và là nhân tố đưa đến mọi thành công trong công cuộc Đổi mới hôm
nay./.
------------------------------------
(1) Võ Nguyên Giáp. Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí
Minh sống mãi. Ban KLHXH Thành ủy Tp Hồ Chí Minh, 1991. trang 91
(2) 50 năm chiến thắng Điện Biên phủ. nxb Lý luận chính trị. HN
2004. trang 160
7-5-2018