Thứ Ba, 30 tháng 10, 2018

Vai trò người cán bộ chiến lược trong cuộc cách mạng tháng Mười Nga


         Sự thiên tài của lãnh tụ Vladimir Ilyich Lê Nin là đã đưa cuộc cách mạng tháng Mười Nga đi vào lịch sử, mở đầu cho một thời đại mới quá độ đi lên xã hội chủ nghiã trên toàn thế giới.      
      Mọi cuộc cách mạng trên thế giới xét thấy muốn đi đến thành công đều phải được quần chúng nhân dân đông đảo đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên muốn được đông đảo nhân dân tin tưởng và quyết tâm đi theo cách mạng thì vai trò người cán bộ chiến lược có ý nghĩa quyết định nhất. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã cho thấy vai trò to lớn của Lê Nin- người cán bộ chiến lược thiên thiên tài của giai cấp vô sản Nga lúc bấy giờ.
     Ở nước Nga, sau cuộc cách mạng tháng Hai năm 1917, chế độ thống trị chuyên chế Nga Hoàng đã sụp đổ, nước Nga thành lập chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và Xô viết đại biểu công nông binh lính. Những yêu cầu khẩn thiết của nông dân về ruộng đất và việc làm cho công nhân không được chính phủ lâm thời giải quyết. Nạn đói diễn ra gay gắt trong khi chính phủ tư sản vẫn tiếp tục theo đuổi đẩy mạnh cuộc chiến tranh, lùng bắt những người đảng viên Bôn sê vích. Thời kỳ hòa bình đã chấm dứt, nước Nga bước vào thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng; các lực lượng cách mạng Nga khẩn trương chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Trong điều kiện hai chính phủ song song tồn tại như vậy sẽ dẫn đến một sự lựa chọn quyết định của người dân ủng hộ cho chính phủ nào ? Đây là bối cảnh hết sức quan trọng để lãnh tụ giai cấp vô sản Nga xúc tiến việc chuyển giai đoạn từ cách mạng tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
    Với bản Luân cương tháng Tư cùng tác phẩm Nhà nước và Cách mạng giai cấp vô sản Nga đã chuẩn bị đầy đủ những định hướng chiến lược cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và những nhiệm vụ cần kíp cho chính quyền mới sau khi ra đời. Đêm 24 tháng 10, khi thời cơ đến với khẩu hiệu: “Tất cả chính quyền về tay xô viết”; “Hòa bình, ruộng đất, bánh mì”; cuộc khởi nghĩa vũ trang của giai cấp vô sản Nga đã nổ ra và nhanh chóng giành thắng lợi. Ngay trong đêm 25 tháng 10 năm 1917 (tức  ngày 7 tháng 11 Dương lịch) , chính quyền Xô viết do ông Lê nin đứng đầu được thành lập. Các sắc lệnh đầu tiên được thông qua là Sắc lệnh hòa bình (lên án chiến tranh) và "Sắc lệnh ruộng đất" (nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân). Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao được thành lập để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hội đồng có trách nhiệm cải cách ruộng đất: xóa bỏ việc chiếm hữu ruộng đất của giới địa chủ, trao lại ruộng đất cho nông dân. Đối với công nghiệp, họ quốc hữu hóa một số nhà máy lớn, đồng thời thực hiện chính sách lao động tiên tiến: ngày làm việc 8 giờ, cấm sa thải công nhân bừa bãi, quy định chế độ nghỉ phép đối với công việc nặng nhọc. Chính quyền Xô viết còn thực hiện các biện pháp thủ tiêu tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp, những đặc quyền của giáo hội, thực hiện chính sách nam nữ bình đẳng…..
      Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa - nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Nó báo hiệu quá trình cải tạo thế giới theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu.
 Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử loài người, từ thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa. Đây là một cuộc cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay “chính quốc”, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga hoàng, mở ra thời kỳ vùng dậy không gì ngăn cản được của các dân tộc bị áp bức, giành độc lập, tự do, làm lay chuyển hậu phương rộng lớn của chủ nghĩa đế quốc khắp thế giới.
       Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã cổ vũ, lôi cuốn mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của những nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh. Thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước, như: Ba Lan, Bulgaria, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hungary, Tiệp Khắc, Albania, Mông Cổ, Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam đã tạo nên những tiền đề thực tế cho sự ra đời của một hệ thống xã hội mà trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử. Chỉ một thời gian ngắn sau khi ra đời, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã đóng vai trò chi phối với nhiều quá trình quan trọng của thế giới hiện đại.
       Hơn 100 năm đã qua, sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga không chỉ mở ra trang sử mới cho một thời đại cách mạng vô sản bùng nổ trên toàn thế giới; mà chính cuộc cách mạng đã cho thấy vai trò nổi bật của lãnh tụ Lê Nin - người cán bộ chiến lược vĩ đại của giai cấp vô sản.
      Trước hết Lê Nin là người nắm chắc học thuyết Mác, cùng với những quy luật lịch sử đấu tranh giai cấp để biết chắc chắn khi Cuộc cách mạng tư sản kết thúc sẽ dẫn đến Cuộc cách mạng vô sản với sự thay thế một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Chính Lê Nin là người kế thừa và phát triển học thuyết Mác để tiến hành xây dựng một Đảng mác xít chân chính lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản nổ ra và giành thắng lợi trong một nước đế quốc phát triển.
      Ngay sau khi trở về Nga Lê Nin đã nhanh chóng nắm bắt tâm tư nguyện vọng của công nông binh lính, công bố bản Luận cương tháng Tư, dựa hẳn vào quần chúng nhân dân lao động, trước hết là công nhân để tiến hành cách mạng thiết lập Xô viết.
       Từ thực tiễn cách mạng, Lê nin đã nhận rõ sự bất bình của người dân với chính phủ lâm thời vì nguyện vọng của người lao động không được đáp ứng. Trong khi dân chúng đói kém, chán ghét chiến tranh thì chính phủ lại tăng cường bắt lính đẩy mạnh chiến tranh, tập trung đàn áp cách mạng. Tình thế đấy nhanh thời cơ chín muồi, Người lãnh tụ đã nhanh chóng nắm lấy để phát động khởi nghĩa giành chính quyền về tay công nông.
       Cuộc khởi nghĩa nổ ra được chính Lê nin và các cộng sự chủ chốt trực tiếp chỉ đạo chặt chẽ, phối hợp sức mạnh tổng hợp của công, nông, binh lính. Lực lượng cách mạng bao gồm các đơn vị Cận vệ đỏ của công nhân Pê-trô-grát, binh sĩ cách mạng và thủy thủ Hạm đội Ban-tích; binh lính của chính phủ lâm thời quay súng hợp tác với lực lượng cách mạng đã hợp lực tấn công chính phủ phản động, bắt giữ các bộ trưởng của chính phủ tư sản A Kê ren xki để lập chính phủ Xô Viết.
       Điều vô cùng quan trọng nữa là ngay sau khi chính quyền Xô Viết được thành lập Lê nin đã đưa ra một loạt chính sách đúng đắn để duy trì và phát triển chế độ mới một cách linh hoạt tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, trong đó đáng chú ý như chính sách Cộng sản thời chiến (6/1918- 3/1921); chính sách Kinh tế mới từ 3/1921- 1929) .v.v…Chính nhờ sự tài gỏi của lãnh tụ mà cuộc cách mạng Nga không những vượt qua được mọi thử thách do các nước đế quốc tập trung tấn công vào nhà nước non trẻ mà còn tạo nên thế và lực ngày càng hùng mạnh làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.
         Thời gian đã lùi xa vào quá khứ, nhưng Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã để lại cho nhân loại nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng một bài học vô cùng quý giá đó là: muốn cách mạng giành được thắng lợi Đảng lãnh đạo phải luôn có một đội ngũ cán bộ chiến lược đủ tài năng trí tuệ và uy tín để đưa ra những quyết sách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh; nhất là khi chúng ta đang bước vào thời đại mới, hội nhập, toàn cầu hóa./.

                                                                             10-2018
 
    


Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2018

Những dấu ấn không bị mờ phai từ Cách mạng tháng Tám


      Khác với nhiều địa phương trong cả nước, Cuộc khởi nghĩa của Hà Tĩnh bùng nổ khi Đảng bộ đang gặp khó khăn nhất; hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh xuống cơ sở đã bị kẻ địch phá vỡ nhiều lần. Hầu hết, các đồng chí cán bộ, đảng viên ưu tú bị kẻ địch bắt giam giữ trong các nhà tù sau nhiều đợt vây quét khốc liệt. Trong đó, phải kể tới những thời kỳ vô cùng khó khăn như những năm sau 1930 - 1931, thời kỳ kẻ địch khủng bố đàn áp phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tiếp đến là thời kỳ sau chiến tranh Thế giới thứ II bùng nổ, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định giải tán các tổ chức nghiệp đoàn, cấm các hoạt động của Đảng Cộng sản
Thời kỳ tiền khởi nghĩa, Hà Tĩnh vẫn là nơi kẻ địch tăng cường đàn áp, khủng bố và thực hiện nhiều chính sách bóc lột tàn bạo. Thực dân Pháp một mặt phát xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp những người có tinh thần yêu nước. Mặt khác, chúng dùng thủ đoạn giả nhân, giả nghĩa lừa phỉnh Nhân dân đồng thời đẩy mạnh chính sách vơ vét sưu thuế, gia tăng sức bóc lột. Nhiều chính sách hà khắc được thực dân Pháp triển khai ở Hà Tĩnh như hạn chế việc đi lại, đọc sách báo, hội họp, mít tinh của Nhân dân. Tuyển thêm lính kín, lính khố xanh, cho mật thám giả danh làm người buôn lợn, buôn bò, ăn xin trà trộn trong dân để dò la tin tức, điều tra hoạt động cộng sản. Các phường hội như Tương tế, Ái hữu bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Những người đứng đầu các tổ chức đều bị bắt, xét hỏi, bị phạt tiền...
      Mãi đến tháng 5 năm 1940, Tỉnh uỷ lâm thời do đồng chí Trần Quỳ, Xứ uỷ Trung kỳ chỉ đạo mới được thành lập gồm 5 đồng chí.   Sau đó, một số địa phương lập lại Huyện ủy như Hương Sơn, Can Lộc, Hương Khê... Mặc dù được sự chỉ đao trực tiếp của Xứ uỷ Trung kỳ, hệ thống tổ chức Đảng ở Hà Tĩnh mới được khôi phục dần, nhưng vẫn còn rất nhỏ bé.  Sau cuộc tập kích đồn điền Ferey và việc tổ chức ám sát tên Bang tá Hồ Dũng Tài của Chi bộ Song Con, Cẩm Lĩnh (Hương Sơn) vào tháng 5-1941, thì tổ chức Đảng lại bị kẻ địch triệt phá hoàn toàn. Riêng ở Hương Sơn, chỉ 2 tháng sau vụ Bang tá Hồ Dũng Tài bị giết đã có 170 người bị bắt, 30 người bị xử bắn. Gần như đến ngày khởi nghĩa hệ thống tổ chức của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh chưa có một tổ chức lãnh đạo thống nhất.
         Khi thời cơ chín muồi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền xuất hiện thì ở Hà Tĩnh vẫn phải do Mặt trận Việt Minh đảm nhiệm mà nòng cốt là những hạt nhân của Đảng. Mặc dù dưới sự lãnh đạo của mặt trận Việt minh, song cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh cũng không giống như ở nhiều nơi khác. Trên đất Hà Tĩnh cũng chưa có một Uỷ ban khởi nghĩa thống nhất chỉ huy. Trước hết là việc cướp chính quyền đầu tiên ở huyện Can Lộc. Trong khi Việt minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh vừa họp bàn để chuẩn bị khởi nghĩa thì một nhóm thanh niên ở Can Lộc do liên lạc được với Việt Minh Hà Nội, sớm thấy được tình hình diễn biến mau lẹ đã huy động lực lượng tước vũ khí binh lính bảo an, xông vào bắt giữ tri huyện, chiếm huyện đường, sau đó phối hợp tổ chức giành chính quyền trong toàn huyện. Việt minh phân khu Nam Hà của địa phương sau khi nhận được chỉ đạo của Việt Minh liên tỉnh đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh, phát lệnh khởi nghĩa ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Thị xã Hà Tĩnh và sau đó đến Kỳ Anh. Nghi Xuân thuộc địa bàn phân khu 1 cùng với Vinh-Bến Thuỷ, Hưng Nguyên. Ở huyện Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê lại thuộc về địa bàn của phân khu 5- phân khu La-Hương-Hương, không thuộc Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh; mỗi huyện thành lập một Uỷ ban khởi nghĩa huyện do Việt Minh liên tỉnh trực tiếp chỉ đạo. Như vậy dù trong cùng một thời gian, các huyện, thị Hà Tĩnh mặc dù được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin và sự chỉ đạo khác nhau; song tất cả đã thống nhất mục tiêu, nắm bắt thời cơ giành chính quyền thắng lợi.
         Một nét đặc biệt khác về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh đó là sự giúp đỡ phối hợp giữa các lực lượng, các địa phương trong tỉnh. Trong điều kiện thông tin chưa thuận lợi, phong trào quần chúng lại được tổ chức và chỉ đạo phát triển từ trong sự kìm kẹp của chính quyền địch; nhưng chính sự thống nhất trong mục tiêu lý tưởng, sự tôi luyện trong quá trình tranh đấu đã làm cho ý chí và hành động của người Hà Tĩnh gắn kết với nhau, chung sức lật đổ bộ máy thống trị giành độc lập. Trong thực tế đã có việc bộ phận này giành chính quyền hôm trước, hôm sau bộ phận khác giành lại như ở huyện đường Can Lộc; song tất cả đều là việc giành chính quyền về tay nhân dân thoát khỏi ách xiềng xích nô lệ. Do vậy mọi việc đã diễn ra tốt đẹp, chính quyền được duy trì, cán bộ tham gia khởi nghĩa đều được điều động, bố trí thuyên chuyển, sử dụng mà không xẩy ra một sự xung khắc đáng tiếc nào. Hoặc như Hương Khê thuộc phân khu La-Hương-Hương ở xa trung tâm, thông tin chậm trễ, Việt minh ở phân khu Nam Hà đã bố trí lực lượng giúp sức cùng kéo vào tước khí giới của đồn địch ở huyện lỵ Chu Lễ, sau đó phân công huy động lực lượng, vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền.
     Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám ở Hà Tĩnh dù thế cũng đã giành thắng lợi nhanh chóng. Sức mạnh của quần chúng được khơi dậy mạnh mẽ. Mục tiêu cách mạng của Đảng đã trở thành nguyện vọng bức thiết của mọi người dân, nên khi thời cơ đến tất cả đã vùng lên giành lấy chính quyền từ tay kể thù.  Hà Tĩnh chính thức tổ chức giành chính quyền về tay công nông bắt đầu từ ngày 16-8-1945 tại Can Lộc, sau đó đã nhanh chóng được diễn ra ở khắp nơi trong toàn tỉnh. Đặc biệt là sau việc giành chính quyền ở thị xã Hà Tĩnh một cách mau lẹ vào ngày 18-8-1945 thì cơ bản chính quyền đã thực sự về tay nhân dân. Cho đến ngày 21-8 sau cuộc khởi nghĩa Hương Khê kết thúc thì tất cả các huyện thị trong tỉnh đã thành lập được chính quyền cách mạng. Chỉ trong vòng 5 ngày từ 16 đến 21-8 toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân. Hà Tĩnh trở thành một trong bốn tỉnh của cả nước giành được chính quyền cách mạng sớm nhất.
           Bảy mươi ba năm đã qua, khí phách và tinh thần cách mạng tháng Tám vẫn luôn thấm đẫm trong mỗi người dân. Càng tìm hiểu thêm về những nét đặc sắc trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám Hà Tĩnh, càng giúp mỗi chúng ta nhận rõ những dấu ấn sâu sắc không bị mờ phai theo thời gian. Phát huy tinh thần Cách mạng tháng Tám, Đảng bộ và nhân dân đã từng bước đi lên và không ngừng gặt hái những thành công trong việc giúp nhau xoá đói giảm nghèo, xóa nhà tranh tre dột nát, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Xây dựng nông thôn mới.v.v…. Ngày nay trong điều kiện hội nhập quốc tế đang tạo ra nhiều vận hội và thách thách thức mới từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Dấu ấn từ cuộc cách mạng hơn 70 năm qua càng  khắc sâu thêm niềm tự hào về truyền thống cách mạng, sức mạnh to lớn từ cội nguồn cộng đồng dân cư để cùng nhau vượt qua mọi trở ngại bứt phá, tìm kiếm những cách làm hay, sáng tạo và quyết tâm hơn trong mỗi chặng đường thực hiện công cuộc đổi mới hôm nay theo định hướng Xã hội chủ nghĩa của Đảng ./.



Hà Tĩnh phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu chống đế quốc Mỹ và trong giai đoạn hiện nay.


Hà Tĩnh một vùng đất hẹp chắn ngang giữa hai miền Nam Bắc nước Việt. Là vùng đất giao hòa khí hậu của hai miền Nam Bắc, vừa cận núi vừa gần biển, Hà Tĩnh trở thành nơi có ví trí xung yếu của đất nước xét về mặt chính trị, đồng thời lại chịu ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt của vùng đất nhiệt đới gió mùa. Con người Hà Tĩnh vừa phải thường xuyên đối phó với thử thách thiên nhiên lại vừa phải đương đầu với những cuộc đọ sức quyết liệt của nhiều cuộc chiến tranh qua các triều đại.
      Sinh tồn trong điều kiện ấy đã buộc con người Hà Tĩnh phải thường xuyên rèn luyện một tinh thần chiến đấu, lao động kiên cường, dũng cảm, bền bỉ và luôn sáng tạo. Người Hà Tĩnh phải luôn có ý thức xây dựng sức mạnh cộng đồng, cố kết, với ý thức tổ chức kỷ luật cao. Để vượt qua mọi gian lao thử thách con người Hà Tĩnh phải xây dựng niềm tin sắt đá với mục tiêu lý tưởng, luôn biết chắt chiu tiết kiệm, hiếu học, sáng tạo và tiếp cận cái mới một cách nhanh nhạy để bứt phá mọi gian khó đi lên. Chính những phẩm chất quý giá này hình thành từ con người Hà Tĩnh đã được các thế hệ nối tiếp nhau giữ gìn và phát huy một cách có hiệu quả. Đây là nhân lõi vô cùng quan trong để tạo nên truyền thống tốt đẹp của con người Hà Tĩnh. Truyền thống ấy lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một hệ ý thức bất biến của người Hà Tĩnh, một thứ chủ nghĩa tốt đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là chủ nghĩa anh hùng cách mạng(1) của chúng ta.
     Theo kết quả của nghiên cứu khảo cổ học thì Hà Tĩnh là một trong những vùng đất con người có mặt sớm, bởi thế Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trở thành vốn quý lâu đời của Hà Tĩnh. Xuất phát từ việc luôn phải đương đầu với thiên tai, địch họa, người Hà Tĩnh đã luôn phải trăn trở để tồn tại, tìm cách vượt mọi trở ngại khó khăn bằng cách đi của riêng mình. Phải chăng đó cũng là một lẽ thường tình như chính Lê Nin đã từng khẳng định:  "nghĩa là thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình". Trải qua hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm, Hà Tĩnh là quê hương dấy binh của những thủ lĩnh kiên cường như Mai thúc Loan, Đặng Tất, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Cao Thắng.... Trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm đã có những tướng lĩnh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để khi trở về chỉ còn đầu treo trên lưngg ngựa như tướng quân Hà Tông Chính. Ở đây có cả những người dám "ăn cỗ đầu người", dám xả thân nhảy vào lấp lỗ châu mai, làm quân thù run sợ. Sự đột phá đi lên của người Hà Tĩnh còn để lại muôn đời sau được biết đây là quê hương của Xô Viết Nghệ Tĩnh; một địa phương có chính quyền công nông đầu tiên sau cách mạng tháng Tám và cũng là nơi không để kẻ thù đứng chân nỗi một ngày đêm trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp….

      Không chỉ trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm để giữ gìn bờ cõi mà trong công cuộc xây dựng quê hương trên các lĩnh vực,  nhiều danh nhân người Hà Tĩnh đã sống mãi với thời gian như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Phan Chánh, Lê Hữu Trác....và cả những lãnh tụ của Đảng như Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Duẩn đều có quê hương gốc rễ từ đây.
       Song cái gần gủi nhất đối với chúng ta, niềm tự hào to lớn đang còn nóng bỏng đối với mỗi con người trong thế hệ hôm nay đó là Hà Tĩnh đã và đang phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ và trong  thời kỳ đổi mới hôm nay.
            A- Trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ.
      Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của dân tộc ta kéo dài hơn hai mươi năm; trong thời gian ấy Hà Tĩnh vừa là hậu phương lớn của Miền Nam, vừa là tiền tuyến lớn của miền Bắc. Hà Tĩnh như chiếc cầu nối giữa một vùng rộng lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa với miền Nam đang trong chế độ thuộc địa kiểu mới của đế quốc. Để cuộc đấu tranh đi đến thống nhất nước nhà Hà Tĩnh phải đồng thời làm tròn nhiệm vụ của hai trách nhiệm lớn: vừa lo xây dựng quê hương vừa lo đáp ứng nhu cầu chi viện của Miền Bắc đối với cách mạng miền Nam. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân pháp kết thúc, hòa bình lập lại; Hà Tĩnh đã cùng nhân dân miền Bắc nhanh chóng tiến hành công cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của chủ nghĩa xã hội để làm hậu thuẩn cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Thực hiện kế hoach 5 năm lần thứ nhất, Hà Tĩnh đã dấy lên nhiều phong trào sôi nổi như phát triển Hợp tác xã nông nghiệp; phong trào làm hồ đập thủy lợi cải tạo đồng ruộng, đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp; phong trào thi đua giữa các tầng lớp nhân dân…. Đến giữa năm 1965 Hà Tĩnh đã có 92% số hộ nông dân vào Hợp tác xã, xây dựng gần 300 Hợp tác xã thủ công nghiệp; đồng thời triễn khai xây dựng hơn 20 công trình thủy lợi lớn nhỏ, trong đó có một số công trình lớn như Đập Khe Lang, Hồ chứa nước Thượng Tuy, Trạm bơm Linh Cảm ….
         Chúng ta có thể thấy rõ hơn sự phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Hà Tĩnh trong cuộc chiến đấu chống Mỹ và thời kỳ đổi mới hiện nay qua một số vấn đề cụ thể như sau:
1.     Xây dựng quê hương trong điều kiện chiến tranh
 Ngay sau khi Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc; Hà Tĩnh đã nhanh chóng cùng cả nước chuyển từ thời bình sang thời chiến. “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu” đó là mệnh lệnh không chỉ từ đường lối của Đảng mà chính ngay từ trái tim của mỗi người dân yêu nước Hà Tĩnh. Nhiều phong trào thi đua có sức lan tỏa lớn như: “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ nữ cùng với những khẩu hiệu hành động được chăng lên mọi nơi mọi không gian có thể; đó là “Chắc tay cày vững tay súng”, “Chắc tay búa vững tay súng”, Chắc tay bút vững tay súng”…thể hiện sự quyết tâm sắt đá của mọi tầng lớp nhân dân nhằm đánh thắng  đế quốc Mỹ xâm lược. Trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, bão lũ, hạn hán xẩy ra thường xuyên. Người Hà Tĩnh lo cái ăn cái mặc đã là khó, lại càng khó là lo chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Thực hiện chỉ thị của  đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng đầu năm 1968 khi đoàn công tác của Trung ương vào thăm Hà Tĩnh: “Hà Tĩnh tự túc được lương thực là thắng Mỹ”. Đảng bộ và nhân dân đã tập trung cao cho việc phát triển nông nghiệp để nhằm giải quyết cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm cho địa phương. Tỉnh đã chủ trương đổi mới quản lý trong nông nghiệp, tăng cường đầu tư kỷ thuật, cải tiến công cụ, thâm canh, giống mới, xây dựng mô hình ruộng cao sản, áp dụng cấy lúa thẳng hàng…..cùng với việc đẩy mạnh sản xuất là thực hành tiết kiệm. Phong trào “Hũ gạo tiết kiệm chống Mỹ cứu nước” do Mặt trận tổ quốc phát động đã được toàn quân toàn dân hưởng ứng, cho đến cuối năm 1965 đã có 9 vạn hộ dân, 196 bếp ăn tập thể thường xuyên thực hiện.
     Với những quyết tâm và hành động như trên Hà Tĩnh đã không chỉ đảm bảo được lương thực, thực phẩm tại chổ mà còn góp phần huy động chi viện chiến trường. Năm 1967 Hà Tĩnh đã huy động đột xuất được 5.000 tấn gạo, 1000 tấn thịt lợn và 300 tấn hàng nhu yếu phẩm cung cấp cho bộ đội chủ lực tham gia chiến trường Trị -Thiên. (2)  Có thể nói rằng đây là kết quả của sự nổ lược vô cùng lớn của Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh trong chiến tranh.
2.     Đảm bảo giao thông, chi viện chiến trường
     Một trong những vấn đề then chốt trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ là làm sao đem được sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc tiếp sức cho cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam. Đặc biệt từ sau thất bại trong chiến dịch xuân Mậu Thân năm 1968, đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Thực chất đây là sự điều chỉnh kế hoạch chiến tranh của Mỹ nhằm tập trung binh lực đánh vào vùng trọng điểm từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20 nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Chỉ trong 7 tháng địch ném bom hạn chế (từ tháng 4 đến tháng 10/1968) máy bay mỹ đã có hơn 2 vạn lần đánh phá Hà Tĩnh chiếm 71% tổng số lần đánh phá cả thời kỳ chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968). Đặc biệt sau khi địch cắt đứt tuyến vận tải đường quốc lộ 1, thì Ngả ba Đồng Lộc nằm trên tuyến đường 15A, trở thành điểm quyết chiến trên mặt trận giao thông vận tải giữa ta với địch. Mảnh đất Đồng Lộc với diện tích 0,6 Km2 đã phải chịu sự thử thách ác liệt chưa từng thấy. Tính ra mỗi mét vuông đất hứng chịu 3 quả bom Mỹ. Việc điều chỉnh khu vực tấn công tập trung của địch đã làm hạn chế rõ rệt khối lượng vận chuyển hàng hóa từ Bắc vào Nam  đi qua Hà Tĩnh. Từ tháng 4/1968 là 6.500 tấn đến tháng 6/ 1968 chỉ còn 1.430 tấn (3).  Đảm bảo sự vận tải  thông suốt Bắc Nam đã đặt lên vai Hà Tĩnh một trách nhiệm nặng nề, một thử thách quyết liệt, quyết định sự thắng bại trong cuộc chiến đấu. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, toàn dân Hà Tĩnh đã phát huy cao độ sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của cả hệ thống chính  trị. Với khẩu hiệu hành động: “ Máu có thể đổ, nhưng đường không thể tắc”, “Đứt đường như đứt ruột, gãy cầu như gãy xương”; “ Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “địch phá một thì ta làm mười”; “Xe chưa qua nhà không tiếc”. Hàng ngàn người dân với hàng vạn ngày công cùng tất cả các loại phương tiện như ôtô, ca nô, sà lan, thuyền biển, thuyền nan, xe đạp thồ….đã được huy động cho việc đảm bảo giao thông vận tải. Làng Hạ Lôi, xã Tiến Lộc trong một đêm đã phát động được 100 hộ dân phá nhà làm đường cho 130 xe vận tải ra chiến trường. Có người còn hiến cả bộ ván gỗ hậu sự cho chiến dịch có một không hai này. Đây thật sự là một kỳ tích lịch sử. Với tất cả đó chúng ta đã chuyển toàn bộ sức mạnh của miền bắc góp sức cho chiến dịch toàn thắng của đồng bào miền Nam.
3.     Dũng cảm đánh địch trên mọi chiến trường.
      Không chỉ chăm lo phát triển kinh tế trong điều kiện chiến tranh, đảm bảo giao thông thông suốt cho việc vận tải Bắc Nam, Hà Tĩnh còn phải lo đánh giặc ngay trên quê hương mình. Khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, rất nhiều cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa với 100% số xã của Hà Tĩnh đã bị kẻ địch đánh phá. Đặc biệt trong chiến dịch 7 tháng ném bom hạn chế, với sự huy động phương tiện và vũ khí hiện đại của địch,  đã có gần 30 vạn quả bom, 15 vạn quả đạn dội xuống Hà Tĩnh làm chết gần 13.000 người, bị thương 12.800 người(4). Hà Tĩnh trở thành mặt trận nóng bỏng. Lịch sử Đảng bộ mãi mãi ghi dấu ấn sâu sắc về trận thắng đầu tiên của quân dân Hà Tĩnh trong chiến đấu chống Mỹ ở núi Nài ngày 26-3-1965. Bộ đội cao xạ cùng lực lượng dân quân Thị xã Hà Tĩnh đã dùng mưu kế nghi binh, bắn rơi 9 chiếc máy bay Mỹ. Hà Tĩnh được Đảng và Bác Hồ động viên kịp thời khi  bắn rơi chiếc máy bay thứ 100 của Mỹ và được xếp vào tốp 5 tỉnh “Kiện tướng” diệt máy bay Mỹ. Cả Hà Tĩnh như một chiến trường đánh Mỹ suốt ngày đêm. Nhiều địa chỉ trở thành điểm đọ sức với bom đạn địch như Bến Thủy, Linh Cảm, Thượng Gia, Hạ Vàng, Đồng Lộc, Địa lợi, Lộc Yên, Ngả ba Thình Thình…Thực hiện lời kêu gọi của Hồ chủ tịch: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” Hà Tĩnh đã kiên cường trong đánh gặc. Nhiều tên tuổi của các đơn vị , cá nhân trở thành Anh hùng được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận như tiểu đội Mười cô gái Đồng Lộc, tiểu đội dân quân gái Kỳ Phương, tiểu đội mười cô gái núi Nài…cùng rất nhiều cá nhân anh hùng khác tiêu biểu như Dương Chí Uyển, La Thị Tám, Nguyễn Tiến Tuẫn, Uông Xuân Lý.v.v….đã làm rạng danh con người Hà Tĩnh tại một vùng trọng điểm chiến tranh.
       Sau  4 năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã chiến đấu dũng cảm, mưu trí bắn rơi 267 máy bay, bắn cháy 34 tàu chiến các loại và bắt sống nhiều gặc lái của địch để lại biểu tượng không thể phai mờ trong lòng mọi người dân yêu nước và bạn bè quốc tế hình ảnh:
                      “O du kích nhỏ gương cao súng
                   Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”.
     Không chỉ đánh địch trên quê hương, hàng vạn thanh niên con em Hà Tĩnh với hơn 10% lao động chính đã được huy động chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên các chiến trường miền Nam và nước bạn Lào. Người Hà Tĩnh đã  để lại tình cảm và ấn tượng sâu sắc về chủ nghĩa anh hùng cách mạng ngời sáng cho các thế hệ mai sau học tập.

 B- Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong giai đoạn hiện nay.     Sau khi kết thúc cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ, hòa bình được lập lại, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ đổi mới. Một thách thức rất lớn đối với Hà Tĩnh là cơ sở vật chất, hạ tầng, lực lượng lao động bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nền tảng kinh tế xã hội để tiến hành công cuộc xây dựng mới đang nằm ở trình độ rất thấp. Thực hiện công cuộc đổi mới với ý chí và quyết tâm cao chưa đủ. Hà Tĩnh còn phải biết tận dụng cơ hội, xác định đúng hướng đi với lộ trình phù hợp.
        Công việc đầu tiên của Hà Tĩnh trong thời kỳ đổi mới là phát huy cao độ sức mạnh nội lực nhanh chóng khôi phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân làm nền tảng cho bước đi mới. Một mặt Hà Tĩnh đã tìm cách nâng cao dân trí, tập trung tạo nguồn nhân lực cho cuộc xây dựng mới, đây là hướng đi cơ bản chuẩn bị cho bước đi lâu dài. Toàn tỉnh đã tập trung chăm lo lĩnh vực giáo dục, từng bước thực hiện xóa mù, chuẩn hóa trình độ giáo dục phổ cập tiểu học, trung học, đảm bảo cơ sở vật chất trường học… phong trào xây dựng trường học cao tầng đã được triễn khai trong toàn tỉnh. Để tạo điều kiện cho người dân ổn đinh cuộc sống; một chủ trương vô cùng quan trọng được phát động rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân; mọi tổ chức chính trị, xã hội trong tỉnh đó là “Xóa nhà tranh tre dột nát”; “Giúp nhau xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm”. Chính nhờ sức lan tỏa mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân đã nhanh chóng đưa Hà Tĩnh từ chổ  quanh năm nhờ vào sự giúp đỡ của trung ương với gần 50% hộ nghèo sau ngày tách tỉnh 1991, tới việc tự lo cuộc sống và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn hơn 10% hiện nay. Hà Tĩnh còn  là tỉnh được công nhận hoàn thành việc xóa nhà tranh tre dột nát đầu tiên trong cả nước vào năm 2003.
        Sau ngày tách tỉnh để giải quyết vấn đề lương thực Hà Tĩnh đã triển khai quyết liệt việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật trong nông nghiệp. Chương trình cải tạo đồng ruộng, xây sựng hệ thống kênh mương thủy lợi và thực hiện chuyển dịch mùa vụ kết hợp việc triển khai đồng bộ phổ cập giống mới đã thực sự mang lại hiệu quả. Tuy nhiên để Công cuộc đổi mới có kết quả Hà Tĩnh không chỉ dừng lại từ hướng đi nông nghiệp mà còn phải đẩy mạnh việc chuyển dịch kinh tế sang phát triển công nghiệp. Đảng bộ Hà Tĩnh đã sớm xác định mục tiêu xây dựng các mũi kinh tế trọng điểm phấn đấu sớm trở thành một tỉnh có nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ phát triển. Để giải quyết hướng đi mới, Hà Tĩnh đã đẩy mạnh việc thu hút kêu gọi đầu tư phát huy sức mạnh ngoại lực. Tỉnh đã sớm ban hành chính sách thu hút nhân tài kêu gọi con em Hà Tĩnh trở về xây dựng quê hương. Một loạt hoạt động tổ chức tiếp cận các doanh nghiệp ngoài nước, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư đã được triển khai. Từ một chủ trương đúng, Hà Tĩnh đã nhanh chóng huy động ngoại lực, nâng cao vị thế năng lực phát triển; đã có lúc chỉ số năng lực cạnh tranh của Hà Tĩnh đứng thứ 3 cả nước. Một số khu kinh tế trọng điểm của tỉnh được ra đời, trong đó đáng chú ý là khu kinh tế Vũng Áng phía Nam của tỉnh trở thành một trong 8 khu kinh tế lớn của cả nước. Từ những khu kinh tế mới đã thu hút hàng trăm dự án, với nguồn vốn đầu tư của nước ngoài lên đến hàng chục tỷ USD. Có thể nói rằng với sức mạnh từ nội lực và ngoại lực đã mở ra cho Hà Tĩnh những cơ hội mới và diện mạo mới. Việc phát triển kinh tế đã thúc đẩy nhanh sự hình thành những đơn vị hành chính mới:  huyện Vũ Quang, Lộc Hà, Thị xã Hồng Lĩnh, thị xã Kỳ Anh đã ra đời. Tổng thu ngân sách trên địa bàn Hà Tĩnh sau hơn 25 năm từ ngày tái lập tỉnh) đã tăng từ  28 tỷ 428 triệu đồng (1991)(5) lên tới 8.900 tỷ đồng (2017) có năm đạt kỷ lục hơn 11 ngàn tỷ đồng. Bình quân thu nhập đầu người từ 188 USD(1991)- nằm trong tốp thấp nhất cả nước, lên 1.770 USD (2017). Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, cả Hà Tĩnh đang dồn sức làm thay đổi cuộc sống vật chất tinh thần của người dân nông nghiệp lâu đời. Với cách làm quyết liệt và đầy sáng tạo, không chỉ trông chờ vào Nhà nước, các địa phương còn huy động mọi nguồn lực trong đó có cả sức dân lên tới hàng trăm tỷ đồng. Vượt lên mọi trở lực, Hà Tĩnh không chỉ phấn đấu cho các chỉ tiêu quốc gia mà còn bổ sung thêm tiêu chí xây dựng Khu dân cư kiểu mẫu, Vườn mẫu. Đến nay toàn tỉnh Hà Tĩnh đã có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, các xã còn lại đều đạt trên 10 tiêu chí. Tỉnh đã tổ chức vinh danh đợt 1 cho 34 Khu dân cư kiểu mẫu và 31 Vườn mẫu. Hà Tĩnh đang trở thành điểm sáng của toàn quốc về phong trào xây dựng nông thôn mới; là nơi hội tụ sự quan tâm của các địa phương trong cả nước và các nước trong khu vực. Cùng với những thành công trong công cuộc xây dựng mới, Hà Tĩnh năm 2017 còn giành nhiều thành quả đáng tự hào trên các lĩnh vực khác, giáo dục đứng thứ 3 toàn quốc về học sinh gỏi, thể thao thành tích cao giành 8 huy chương quốc tế, Mộc bản Trường lưu được tổ chức quốc tế công nhận là di sản ký ức thế giới.v.v…
       Rõ ràng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Hà Tĩnh không chỉ được thể hiện trong quá khứ đấu tranh cách mạng, mà ngày nay đang được phát huy mạnh mẽ, trở thành nguồn sức mạnh to lớn trong toàn Đảng toàn dân, không ngừng tiếp sức và nâng tầm cho Hà Tĩnh vươn tới những mục tiêu cao đẹp hơn trong thời đại mới./.
       




-----------------------------
(1) Xem bản gốc tại Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh nói về nội dung Chủ    
                         nghĩa anh hùng cách mạng  tháng  4-1966
(2) Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh tập 2, nxb CTQG. HN.2014. trang 123
(3) Sách đã dẫn                                                                      trang 130
(4) Sách đã dẫn                                                                      trang 139
(5) Niên giám thống kê tháng 10-1995                                  trang  25


Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2018

Những điều cần biết trong tổ chức biên soạn Lịch sử Đảng bộ


      Mỗi một con người chúng ta sinh ra, lớn lên và trưởng thành không ai không có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của lịch sử. Dẫu công lao to lớn đến mấy, nếu không được chăm lo tốt việc giáo dục truyền thống, không có những tài liệu lịch sử để lại thì các thế hệ sau cũng chỉ biết đến các giai đoạn lịch sử trước như một sự phát triển tất yếu tự nhiên của xã hội.
      Đảng và Nhà nước ta bên cạch việc chăm lo phát triển kinh tế- xã hội nói chung, đã có chủ trương chỉ đạo các cấp, các ngành quan tâm đến việc giáo dục truyền thống, viết lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng từ Trung ương đến các địa phương.
       Hà Tĩnh là một tỉnh đang trong quá trình phát triển, còn rất nhiều vấn đề phải tập trung giải quyết. Nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp đến nay chúng ta đã tổ chức biên soạn và xuất bản nhiều bộ lịch sử quý như: Lịch sử đảng bộ Hà Tĩnh 3 tập (từ 1930 đến năm 2010), Lịch sử Hà Tĩnh 2 tập (từ 1831 đến 2000). Hầu hết các sở, ban, ngành, huyện, thành phố, thị xã đã biên soạn và xuất bản lịch sử. Hơn 60% số xã, phương, thị trấn đã xuất bản lịch sử đảng bộ và lịch sử cách mạng.  Có thể nói việc tổ chức nhiên cứu biên soạn các loại tài liệu lịch sử địa phương vừa qua đã góp phần rất quan trọng trong việc tuyên truyền giáo dục truyền thống đối với các tầng lớp nhân dân, quảng bá hình ảnh Hà Tĩnh đối với bạn bè, đối tác trong và ngoài nước. Tuy vậy trong quá trình tổ chức nghiên cứu, biên soạn , xuất bản do thiếu những hiểu biết cần thiết đã không ít trường hợp gặp phải những khó khăn trở ngại kể cả việc thất thoát tiền bạc để lại dấu ấn không tốt trong các đơn vị. Trong số sách đã được xuất bản vẫn không thể tránh khỏi những sạn cát, cá biệt có tài liệu còn thiếu thẩm định khoa học, chưa được sự đồng tình của các đọc giả đã một thời làm nên lịch sử địa phương…
     Ngày 18-1-2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có chỉ thị số 20 yêu cầu “Các cấp uỷ, trực tiếp và thường xuyên là thường trực cấp uỷ tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác lịch sử Đảng. Quan tâm việc sưu tầm, khai thác tư liệu, nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng. Chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác lịch sử Đảng có kiến thức chuyên ngành sâu rộng, có bản lĩnh chính trị và tinh thần trách nhiệm cao”; “bổ sung, hoàn thiện, nâng cao chất lượng, tính khách quan, khoa học của các công trình lịch sử Đảng ở các cấp”…. 
     Từ thực tiễn làm công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ chúng tôi nhận thấy để đảm bảo chất lượng và yêu cầu của mỗi cuốn sách Lịch sử Đảng bộ mỗi đơn vị cần quan tâm đày đủ một số vấn đề cơ bản sau đây.
     1. Trước hết phải xem làm sử là một công việc khoa học, đòi hỏi phải được đối xử khoa học. Muốn có một cuốn sử đảng bộ tốt, nhất thiết cần phải được những người có hiểu biết về khoa học lịch sử Đảng tham gia. Viết sử là dựng lại lịch sử một cách chân thực để các thế hệ sau hiểu đúng bản chất của lịch sử đã diễn ra, giúp người đọc nhận ra được chổ đứng của mình để nhìn lại lịch sử một cách đúng đắn. Qua lịch sử người đọc không phải chỉ hiểu các sự kiện lịch sử đã diễn ra  như một sự liệt kê chắp nối, mà điều quan trọng là chổ người đọc có thể  hiểu được vì sao có được những sự kiện như vậy, bản chất của những sự kiện đó là gì và giữa các sự kiện lịch sử có mối quan hệ với nhau như thế nào; để từ đó rút ra cho mình những điều bổ ích nhất cho cuộc sống hiện tại. Để có thể dựng lại lịch sử một cách chân thực người viết cần có những hiểu biết cơ bản, toàn diện trên nhiều lĩnh vực khoa học; có phương pháp xem xét, chọn lựa và thể hiện của bộ môn khoa học lịch sử, không mảy may vì danh, lợi cá nhân trong khi nghiên cứu biên soạn lịch sử. Một cuốn sử viết sai bản chất vấn đề có thể gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ; ngược lại một cuốn sử tốt có thể khơi dậy sức mạnh và niềm tự hào của một cộng đồng, hoặc cả dân tộc. Vì thế những người làm sử chân chính thường có bản chất trung thực, có bản lĩnh và lòng dũng cảm trong quá trình tái tạo lại lịch sử. Dù rằng các Đảng bộ hoạt động đều do cấp ủy cấp trên lãnh đạo nhưng không có nghĩa là lịch sử diễn ra như nhau; các sự kiện diễn ra giống nhau; mà kết quả trong lịch sử tùy thuộc năng lực, trình độ, uy tín, phương pháp lãnh đạo… của từng cấp ủy khác nhau; ý thức, tâm lý, nhận thức, tập quán.…của quần chúng từng địa phương khác nhau; các mốc lịch sử của từng địa phương khác nhau.v.v …do vậy không thể viết Lịch sử các Đảng bộ giống tựa nhau.
        2. Về tổ chức Ban biên soạn, đã có những Ban chỉ đạo địa phương do suy nghĩ giản đơn đã tìm đến người viết không có chuyên môn nghiệp vụ Lịch sử Đảng, lại chưa từng biết Phương pháp luận Lịch sử Đảng là gì, chưa hề tham dự tập huấn nghiệp vụ nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng nên đã cho ra đời những cuốn sách không đáp ứng của một cuốn Lịch sử Đảng bộ.  Một cuốn sử tốt chắc chắn tùy thuộc vào Ban biên soạn. Ban biên soạn không phải là một ban cơ cấu thành phần có các bộ phân của Đảng bộ mà là một lực lượng cầm bút viết sách thực sự. Trong bộ phận trực tiếp biên soạn không thể thiếu  những người đã được đào tạo viết Lịch sử Đảng, đã có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức phương pháp viết lịch sử Đảng. Bởi cứ chọn những người văn hay, chữ tốt đi viết lịch sử Đảng bộ thì chưa đủ, điều đó cũng giống như đưa phóng viên ảnh đi viết xã luận, đưa thợ gỗ đi làm nghề sắt mà thôi…
3. Để viết một cuốn sử nhất thiết cần có nguồn tư liệu phong phú. Thời gian càng lùi xa nguồn tư liệu càng trở nên hiếm và quý, vì vậy người viết sử phải tổ chức đi sưu tầm, khai thác, xác minh, thẩm định tư liệu. Tư liệu càng chính xác thì việc thể hiện vào sử mới có sức thuyết phục cao. Việc khai thác tư liệu, sử dụng tư liệu các nguồn khác nhau, sử dụng tư liệu hồi ký, đưa tên các nhân vật vào lịch sử thế nào để cho một cuốn sử ra đời có giá trị lâu dài…là điều không hề đơn giản. Để chuẩn bị cho việc Biên soạn lịch sử Đảng bộ chúng ta cần chuẩn bị thật tốt tư liệu bao gồm các chỉ thị, nghị quyết, chương trình hành động, biên bản Đại hội, hội nghị, báo cáo kết quả thường năm, nhiệm kỳ; những ký kiến cấp trên liên quan Đảng bộ, thành tích khen thưởng kỷ luật tập thể, cá nhân…của Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể trong Đảng bộ và đội ngũ chủ chốt của Đảng bộ qua các thời kỳ. Những tư liệu trên đây ở thời kỳ đầu của Đảng bộ sẽ không còn nhiều. Chúng ta chỉ có thể khai thác qua tài liệu lưu trử nhà nước một phần và tiến hành tổ chức thẩm định khoa học với các nguồn tài liệu cá nhân còn lưu giữ. Sử dụng nguồn tài liệu này phải có các nhà chuyên môn thống nhất với các cấp ủy Đảng. Đối với các tài liệu hồi ký, tài liệu chưa thẩm định, không rõ nguồn gốc xuất xứ, tài liệu lấy từ kẻ địch.…đều chỉ được phép dùng để đối chiếu tham khảo chứ không thể lấy đó làm tài liệu gốc căn cứ viết lịch sử Đảng bộ.
4. Ban chỉ đạo cần chuẩn bị chu đáo và thống nhất trong cấp ủy về những mốc lịch sử quan trọng của Đảng bộ, mà từ những dấu mốc sự kiện đó làm chuyển biến đáng kể hoạt động của Đảng bộ. Đây là điều phân biệt và không thể giống nhau trong các cuốn lịch sử các Đảng bộ được tổ chức biên soạn
5. Về thời gian hoạt động của Đảng bộ được tổ chức biên soạn tái hiện trong lịch sử, thông thường nên để trống một vài nhiệm kỳ mới nhất. Điều này thể hiện được tính khách quan khoa học cho việc tổng kết hoạt động của Đảng bộ; đảm bảo điều kiện cho cấp ủy sau có đủ thì giờ nhìn nhận rõ hơn, khách quan hơn những cái được và chưa được đã qua, tránh được sự chỉ đạo muốn thể hiện dấu ấn của nhiệm kỳ mình vào cuốn sách.
6. Viết Lịch sử Đảng là tổng kết lại hoạt động của Đảng, vì vậy viết bài học kinh nghiệm  của Đảng bộ là một vấn đề khó và quan trọng, nó không giống như bài học trong một bản báo cáo. Bài học kinh nghiệm của một chặng đường dài hoạt động Đảng bộ phải gắn kết và được thể hiện trong lịch sử. Nó không phải chỉ viết một câu kinh nghiệm giản đơn để rồi Đảng bộ nào cũng giống nhau. Những người có nghiệp vụ thường thể hiện được bài học xuyên suốt của từng Đảng bộ một cách sâu sắc quý giá của riêng từng Đảng bộ mà không phải người viết nào cũng thể hiện được.
 7. Tổ chức thẩm định, nghiệm thu bản thảo: Đã có những cuốn sách phải tổ chức hội thảo lấy ý kiến rất nhiều lần, nhưng rồi sau khi hoàn thành vẫn để lại nhiều dư âm không tốt. Chỉ cần một suy luận chủ quan trong biên soạn đã gây bất bình cho người đọc. Bởi vậy viết sử Đảng là phải dựa vào các văn bản tư liệu của Đảng. Tuy nhiên tư liệu không thể thay thế được nhân chứng lịch sử, vì vậy cần tổ chức tốt việc lấy ý kiến tham gia bản thảo. Phải tổ chức lấy ý kiến thật rộng rãi các nhà nghiên cứu, các đồng chí lãnh đạo cũng như các nhân chứng lịch sử qua cá thời kỳ để tiếp thu bổ sung thêm cho sự phong phú và chính xác. Đối với những vấn đề còn lại chưa thống nhất thì chỉ nên để lại cho bộ phận hẹp bao gồm những nhà chuyên môn và lãnh đạo để xử lý quyết định. Vì không thể cứ tổ chức thảo luận mãi mà không có hồi kết.
               “Ôn cố nhi tri tân” – ôn cũ để biết mới, đó là lời dặn của các thế hệ đã qua; Quan tâm đúng mức công tác lịch sử Đảng là biểu hiện của lòng thuỷ chung với dân tộc, với sự nghiệp các bậc tiền bối của Đảng, là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh của cả cộng  đồng quê hương, dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ./.

                                                                                            6-2018


Thứ Hai, 2 tháng 7, 2018

Mãi mãi vẹn nguyên tinh thần thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh



      Bảy mươi năm đã trôi qua, nhưng Lời kêu gọi thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn để lại cho hậu thế những vấn đề then chốt, sống mãi trong phong trào thi đua thời đại mới.
     Chiến dịch Thu Đông năm 1947 thực sự đã đưa cuộc kháng chiến chống thực dân của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới. Qua chiến dịch, chúng ta loại khỏi vòng chiến đấu một lực lượng lớn hơn 6.000 quân địch. Cơ quan đầu não của cách mạng được bảo toàn, lực lượng quân đội cách mạng được bảo tồn và phát triển có lợi cho ta. Chiến dịch còn cho thấy khả năng chúng ta có thể đánh bại những cuộc tiến công lớn của địch và điều đặc biệt quan trọng là chúng ta đã buộc địch phải chuyển từ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sang đánh lâu dài.
    Để phát huy thêm nguồn sức mạnh cho cách mạng, sau 1.000 ngày toàn quốc kháng chiến; ngày 11/6/1948, tại bản Là Nọn, xã Phú Bình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, chính thức phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Không chỉ là kết quả thành công của phong trào thi đua yêu nước lúc bấy giờ đã phát huy cao độ nguồn lực sức mạnh từ phong trào, đưa cuộc kháng chiến đến thành công; mà đọc lại lời Kêu gọi của Bác trong nội dung chỉ vẻn vẹn 441 chữ chúng ta thấy được cả một khối lượng lớn về những vấn đề cơ bản  then chốt để tổ chức một phong trào thi đua rộng lớn trong toàn quốc.
     Trước hết để phát động một phong trào thi đua thì việc xác định rõ mục đích của phong trào là vô cùng quan trọng. Bởi mục đích rõ sẽ quyết định việc thu hút sự tham gia hưởng ứng của đông đảo quần chúng nhân dân. Mục đích của phong trào sẽ thể hiện tính chất của phong trào và quy định việc tổ chức thực hiện, kết quả thực hiện và tầm ảnh hưởng của nó. Trong lời kêu gọi Bác nói rõ mục đích của thi đua ái quốc là: “Diệt giặc đói khổ,  Diệt giặc dốt nát, Diệt giặc ngoại xâm.”
   Thực hiện điều ấy có nghĩa là kêu gọi toàn dân, toàn quân trong cả nước thực hiện cho được mục đích cụ thể: “Toàn dân đủ ăn đủ mặc. Toàn dân sẽ biết đọc biết viết. Toàn bộ đội sẽ đầy đủ lương thực, khí giới, để giết giặc ngoại xâm. Toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn”.
       Bác cho rằng một phong trào thi đua muốn có kết quả tốt phải có nội dung thi đua cụ thể, phù hợp. Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực”.  Theo Bác “Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua”. Vì thế nội dung thi đua không phải là việc đưa ra những cái xa xôi, không phù hợp với thực tiễn. Thi đua phải thiết thực, gắn với công việc hàng ngày của mỗi người, đem lại lợi ích cho cá nhân, cho cộng đồng và cho đất nước. Người viết: “Tưởng lầm rằng thi đua là một công việc khác với những công việc làm hàng ngày. Thật ra, công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”. 
 Thi đua có nghĩa là mọi người hãy làm tốt công việc của mình đã được tổ chức giao phó, xã hội phân công: “Đồng bào công thương thi đua mở mang doanh nghiệp; Đồng bào công nông thi đua sản xuất; Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh; Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc phụng sự nhân dân; Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng”. “Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn”.Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc”.
“Bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua. Làm cho mau, Làm cho tốt, Làm cho nhiều”. 
         Với mục đích và nội dung như vậy Bác đã chỉ ra cách thức tổ chức thực hiện cuộc thi đua ái quốc là phải dựa vào “Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”. Một phong trào thi đua muốn thu kết quả tốt phải được mọi người hưởng ứng tham gia. Người người thi đua, ngành ngành thi đua. Thi đua là một cách làm cho mọi người tiến bộ, đoàn kết, tiết kiệm…
    Người còn căn dặn: “Thi đua Phải có kế hoạch tỉ mỉ. Kế hoạch ấy phải do từng đơn vị nhỏ, từng gia đình, từng cá nhân bàn bạc kỹ, hiểu biết thấu, vui vẻ làm… Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực”.  Kế hoạch đó không chỉ dừng lại ở người điều hành mà phải thấm sâu tường tận trong mỗi người tham gia thi đua.  Người đặc biệt quan tâm và coi trọng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. “Nói thì phải làm”, “Cán bộ đi trước, Làng nước theo sau”.
    “Sau đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém cỏi”. Nhiều nơi có kinh nghiệm, hoặc kinh nghiệm thành công hoặc kinh nghiệm thất bại, nhưng không biết trao đổi cho nơi khác, để tránh cái dở, học cái hay của nhau. Điều cần thiết nhất, là phải giải thích kỹ càng cho mọi người dân hiểu rõ ràng… Mỗi người dân đều hiểu rõ thì tất cả mọi khó khăn đều giải quyết được, tất cả mọi khuyết điểm đều sửa chữa được”. Trong các việc thi đua ái quốc, cần phải nêu rõ tinh thần cần, kiệm, liêm, chính…
  Người đi đến kết luận: “Thi đua không phải là ganh đua, giấu nghề”, mà là “người đi trước hiểu biết, dẫn dắt người đi sau”; “Thi đua có nghĩa là mọi người phát triển tài năng, sáng kiến của mình, học hỏi điều hay, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ”...
      Từ lời kêu gọi của Bác, phong trào thi đua yêu nước đã được khơi dậy và phát triển rộng khắp các vùng miền và thu hút tầng tầng, lớp lớp nhân dân tham gia. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp các phong trào thi đua như: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “Bình dân học vụ”, “Hũ gạo kháng chiến”… đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đông đảo đồng bào và chiến sĩ cả nước hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm chống giặc đói; thi đua học tập xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu”.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, các phong trào thi đua tiếp tục được duy trì và nở rộ trên khắp các lĩnh vực, các vùng, miền trong cả nước, như: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” ở miền Bắc; phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công ở miền Nam. Phong trào “Sóng Duyên hải” trong sản xuất công nghiệp; “Gió Đại phong” trong sản xuất nông nghiệp; “Cờ Ba nhất” trong quân đội; “Trống Bắc lý” trong giáo dục; “Thanh niên Ba sẵn sàng”; “Phụ nữ Ba đảm đang”….đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thành công. Non sông thu về một mối, cả nước tiến lên con đường xây dựng xã hội mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
    Đi theo tiếng gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã liên tục nổ lực phấn đấu và giành nhiều thành tích vang dội. Hà Tĩnh đã từng được Bác Khen về thành tích đi đầu trong phong trào “Bình dân học vụ”, kiểu mẫu trong phong trào “Thi đua ái quốc”; Ký sắc lệnh tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh. Trong kháng chiến chống Mỹ Bác đã nhiều lần gửi thư khen Hà Tĩnh khi chúng ta bắn rơi chiếc máy bay thứ 100, thứ 200 trên bầu trời miền Bắc…
    Trong công cuộc xây dựng mới, tiếp nối truyền thống Thi đua ái quốc,  Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh vẫn luôn giữ vững hình ảnh đẹp, phấn đấu và gành nhiều kỳ tích mới. Hà Tĩnh là một trong những tỉnh đi đầu trong nhiều phong trào như “Giúp nhau xóa đói giảm ngèo”, “Xóa nhà tranh tre dột nát”, “xóa mù và phổ cập giáo dục tiểu học”, “ Xây dựng trường học đạt chuẩn”…Đặc biệt Hà Tĩnh đang từng bước khởi sắc khi chuyển dần từ nền kinh tế thuần nông sang phát triển công nghiệp và dịch vụ, là tỉnh sớm gia nhập câu lạc bộ nghìn tỷ. Hà Tĩnh còn là điểm sáng trong phong trào “Xây dựng nông thôn mới” thành công và sáng tạo.….
        Sau bảy mươi năm nhìn lại, đâu đó vẫn chưa thể tránh hết những khiếm khuyết cụ thể trong việc tổ chức thực hiện các phong trào thi đua. Hiện tượng phô trương hình thức, lảng phí tiền của, đạt và được công nhận danh hiệu nhưng không giữ nổi phong trào. Khen thưởng, tôn vinh danh hiệu theo chiều chia lượt, ưu tiên lãnh đạo, chưa quan tâm đúng mức sự cống hiến của người lao động trực tiếp…  thì việc tìm hiểu lại một cách thấu đáo những vấn đề then chốt, cơ bản về tinh thần “Thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân “Ngày Truyền thống thi đua yêu nước”, chúng ta càng tự hào về những giá trị vẹn nguyên về những giáo huấn vô cùng quý báu của Người./.

                                                                                                    6-2018



Thứ Năm, 7 tháng 6, 2018

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ để lại những bài học sống mãi với thời gian


   Ngay sau khi cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi; được sự giúp sức của đế quốc Mỹ, Thực dân pháp đã trở lại đứng chân trên đất Đông Dương. Nhân dân Việt Nam ta phải tiếp tục đương đầu với cuộc chiến đấu mới trường kỳ gian khổ.
    Thực hiện lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc lại đi vào cuộc kháng chiến mới. Sau 7 năm nổ lực phấn đấu, quân đội và nhân dân ta đã từng bước làm chủ chiến trường. Để cứu nguy cho sự thất bại sớm, Thực dân Pháp đã quyết định tập trung xây dựng Trung tâm cứ điểm Điện Biên Phủ với một lực lượng quân đội vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại. Ở đây tập trung 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được bố trí thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam với 49 cứ điểm, huy động toàn bộ lính dù và 40% lực lượng cơ động tinh nhuệ nhất của Pháp ở Đông Dương. Hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100 đến 150 quân, đảm bảo nguồn tiếp viện trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ, như “ một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta và là quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava. Muốn giành thắng lợi hoàn toàn quân đội ta phải tiêu diệt được cứ điểm quan trọng này. Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược trong cuộc đọ sức cuối cùng của ta với địch.
  Nắm được âm mưu và thủ đoạn của địch, đưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, quân đội nhân dân Việt nam đã xây dựng kế hoạch tác chiến hợp lý, để sau 56 ngày đêm (13-3-1954 đến 7-5-1954) từ ngày nổ súng tấn công đến 17 giờ 30 phút ngày 7/5, lá cờ chiến thắng được cắm lên hầm chỉ huy của địch. Quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng của địch. Ngày 7/5/1954 trở thành ngày kỷ niệm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
     Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, kỳ tích vẻ vang và vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nó đã tạo bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng đã củng cố niềm tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại.
    Lịch sử sang trang, đất nước đã bước vào thời kỳ xây dựng mới, hội nhập quốc tế; nhưng rất nhiều những bài học to lớn từ chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn theo sát, sống mãi với chúng ta trong sự nghiệp đổi mới.
     1. Trước hết, đó là bài học về tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp- sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong cuộc chiến đấu không cân sức như vậy, chúng ta không thể chiến thắng nếu chỉ đánh địch bằng nghị lực, ý chí quyết tâm mà còn phải bằng cả những điều kiện đảm bảo về vật chất.  Chúng ta không chỉ đánh địch bằng 50.000 quân chính quy mà còn có cả sức mạnh toàn dân đánh giặc trong cả nước. Trong chiến dịch này chúng ta đã huy động tới hơn 26 vạn lượt dân công;  21 ngàn xe đạp thồ, 914 con ngựa thồ; 3130 chiếc thuyền; 1.800 mảng nứa  với 25.560 tấn gạo; 226 tấn muối; 1.909 thực phẩm. Chỉ tính sau 4 đợt huy động từ 10/1953-4/1954, một địa phương xa như Hà Tĩnh cũng đã huy động gần 3 vạn dân công hỏa tuyến phục vụ chiến trường. Đây là điều kiện rất quan trọng đảm bảo cho cuộc chiến đấu của chúng ta có thể duy trì được nhiều ngày tiêu diệt từng bộ phận quân địch tiến tới chiến thắng hoàn toàn.
     2. Bài học về sự kiên định mục tiêu nhưng linh hoạt và sáng tạo trong từng bước đi và cách làm cụ thể. Sau khi cục diện chiến trường thay đổi, Thực dân Pháp dồn quân xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.  Bộ chính trị Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy hạ quyết tâm; “Mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương”. Để thực hiện mục tiêu to lớn ấy, Phương án tác chiến của chúng ta được thống nhất là “đánh nhanh, giải quyết nhanh”: tập trung binh lực, ấn định ngày nổ súng và bằng những cuộc tấn công ồ ạt để tiêu diệt địch trong 3 ngày 2 đêm. Thế nhưng, với tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”.  Từ thực tiễn chiến trường, Bộ đội chưa quen đánh công sự trên địa hình bằng phẳng; chưa có sự tập dượt phối hợp binh chủng; chưa quen với lối đánh ban ngày; đã sớm cho chúng ta thấy được rằng không thể chỉ tập trung dồn quân đánh úp một trận vào pháo đài địch để giành chiến thắng. Bộ chỉ huy chiến dịch đã quyết định chuyến kế hoạch tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh dài ngày, “đánh chắc, thắng chắc”. Đây là bài học linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo chiến dịch để bảm bảo chiến thắng mà chính ngay tướng Pháp Na Va trong hồi ký của mình củng phải thừa nhận: nếu tướng Giáp tấn công như ý định ban đầu “thì chắc chắn ông ta đã thất bại, nhưng không may cho chúng ta, ông ấy đã nhận ra…”
          3.  Bài học về tinh thần chịu trách nhiệm của người cán bộ. Bước vào chiến dịch lớn có ý nghĩa quyết định chiến trường, cho thấy Đảng và Bác Hồ rất coi trọng công tác cán bộ. Xét thấy không thể chỉ huy chiến dịch từ tầm xa Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đưa Tổng chỉ huy ra mặt trận và giao quyền hạn cụ thể. Trước khi đi vào chiến dịch Người nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên ta chỉ được thắng, không được bại, vì bại thì hết vốn”.. “Tổng tư lệnh ra mặt trận. Tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định”(1). Như vậy phương hướng chiến dịch đã rõ ràng,  người chỉ huy đã được trao quyền cụ thể. Nhưng chính yếu tố này đã đặt ra cho chiến dịch những chuyển biến quan trọng có ý nghĩa quyết định. Ngay sau khi bộ chỉ huy chiến dịch họp để thống nhất phương án tác chiến, rất nhiều tướng lĩnh đã có ý kiến khác nhau; có điều không ai dám khẳng định tổ chức đánh nhanh thắng nhanh là chắc chắn giành thắng lợi. Điều này buộc Tổng tư lệnh phải thay đổi phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang phương án “đánh chắc, thắng chắc”.  Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng đây là một “Quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân”. Với quyết định sáng suốt, bản lĩnh và đầy trách nhiệm này đã giúp chúng ta tránh được sự tổn hại lực lượng, góp phần làm nên sức mạnh áp đảo quân Pháp trong trận tiến công mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ  giành chiến thắng vang dội lừng lẫy năm châu.
      4. Bài học về phát huy sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực. Chiến thắng Điện Biên Phủ còn cho chúng ta thấy rõ một sự phối hợp tuyệt đẹp giữa sức mạnh nội lực và sức mạnh ngoại lực được phát huy hiệu quả cao độ. Điên Biên Phủ một cứ điểm nằm tận sâu biên giới Tây Bắc, cách xa hậu phương hàng trăm cây số đường rừng hiểm trở. Để có thể chiến thắng được địch chúng ta đã huy động sức mạnh tổng hợp nội lực từ sức người, sức của, phương tiện vận tải, vũ khí… không chỉ từ bộ đội, mà từ trong nhân dân của tất cả mọi vùng miền đất nước từ vùng hỏa tuyến, vùng tạm chiếm của địch, vùng hậu phương của mặt trận phía Bắc đến cả vùng chiến trường Nam bộ rộng lớn. Tuy nhiên nếu chỉ có sức mạnh nội lực chúng ta không thể giành thắng lợi quyết định. Bởi thế Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, chủ trương Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống bọn phản động thực dân Pháp, đoàn kết với Miên, Lào; thân thiện với Tàu, Xiêm, ấn Độ, Nam Dương…Coi Đông Dương là một chiến trường. Đồng thời với chiến dịch Đông Xuân Việt Nam, phối hợp tấn công địch cả mặt trận Thượng và hạ Lào. Nhờ chủ trương đúng, chúng ta đã phát huy cao hiệu quả sức mạnh từ ngoại lực. Chỉ từ tháng 12-1950 đến tháng 6-1954 các nước anh em đã viện trợ cho ta 21.517 tấn vũ khí, nguyên liệu lương thực thực phẩm; 136 khẩu pháo các loại, 715 xe ô tô vận tải…(2). Nhờ làm tốt công tác địch vận đã có hàng ngàn người lính mang quốc tịch các nước trong quân đội Pháp bỏ hàng ngũ về với lực lượng kháng chiến Việt Nam. Có thể khẳng định rằng chính việc phát huy đồng bộ sức mạnh nội và ngoại lực đã làm quân đội viễn chinh Pháp nhanh chóng thất bại, chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương. ….
       Vẫn còn nhiều bài học có ý nghĩa khác được rút ra từ chiến thắng Điện Biên Phủ; song chừng ấy đã cho thấy giá trị trong thực tiễn công cuộc xây dựng mới của chúng ta hôm nay. Ở bất cứ địa phương nào mà ở đó phát huy được sức mạnh tổng hợp của công đồng; phát huy được sức mạnh nội lực và ngoại lực; những người đứng đầu địa phương, đơn vị dám chịu trách nhiệm trước vận mệnh đất nước và đời sống nhân dân; linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức thực tiễn… thì nơi đó sẽ thành công và là điểm sáng điển hình trong thời kỳ mới.
       Hơn 60 năm đã qua, niềm tự hào và dư âm của chiến thắng Điện Biên Phủ còn đọng mãi trong lòng người dân nước Việt.  Việt Nam, Hồ Chí Minh, Điện Biên Phủ là những tên gọi trân trọng vang vọng khắp năm châu, bốn biển. Đặc biệt là dấu ấn của những bài học từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn luôn tỏa sáng và là nhân tố đưa đến mọi thành công trong công cuộc Đổi mới hôm nay./.

------------------------------------
(1) Võ Nguyên Giáp. Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi. Ban KLHXH Thành ủy Tp Hồ Chí Minh, 1991. trang 91
(2) 50 năm chiến thắng Điện Biên phủ. nxb Lý luận chính trị. HN 2004. trang 160

                                                                           7-5-2018






Các Mác sống mãi cùng học thuyết về một xã hội mới gắn liền vận mệnh của giai cấp vô sản



   Hai trăm năm đã qua với biết bao biến động của lịch sử, song tên tuổi của Mác- người sáng lập và khai sinh ra học thuyết về một xã hội mới vẫn luôn được người đời ngưỡng mộ. Những nguyên lý cơ bản về học thuyết mác sống mãi với thời gian.
    Các Mác (Karl Marx) sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Trier - một thành phố cổ của Đức. Lúc bấy giờ nơi đây là thủ đô của một công quốc tôn giáo lớn, nhưng cũng là nơi có phong trào xã hội sôi động làm bộc lộ những mâu thuẫn xã hội sâu sắc giữa dân nghèo thành thị với thiểu số tầng lớp thị dân giàu có.
    Sinh ra trong một gia đình luật sư, có người cha Henrich Mác, một người học rộng, hiểu biết nhiều, nhất là các tác phẩm của các nhà tư tưởng Pháp đương thời. Mẹ của Mác là bà Henrietta Poretbot, sinh ra được 9 người con (bốn trai, năm gái); Mác là người có đầu óc sáng tạo, thông minh hơn người, là linh hồn của đám trẻ, luôn biết bày ra các trò chơi hấp dẫn và sáng tác ra mọi thứ chuyện tưởng tượng.
   Lúc còn là học sinh trung học, Mác học giỏi đặc biệt ở những lĩnh vự đòi hỏi tính sáng tạo cao. Mác lại may mắn được học với những người thầy tốt về các lĩnh vực như toán học, vật lý, lịch sử và triết học…
  Môi trường gia đình và xã hội đã tác động rất lớn đến tình cảm tư tưởng và những bước đi đầu tiên của Mác.
   Năm 17 tuổi Mác tốt nghiệp trung học phổ thông và bước chân vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật; một thời gian sau Mác chuyển đến trường Đại học Tổng hợp Berlin, ở đây ngoài việc học luật Ông còn được học sử, ngoại ngữ và triết học. Bước sang năm 21 tuổi Mác đã bắt đầu dồn sức và nghiên cứu triết học cổ đại. Năm 1841 Mác bảo vệ thành công luận án tiến sĩ triết học Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit (Démocrite) và triết học tự nhiên của Êpiquơ (Épicure) lúc vừa tròn 23 tuổi.
     Như một sự sắp đặt của lịch sử, mặc dù bị gia đình phản đối quyết liệt, Mác đã làm lễ thành ôn với Gianny.  Cuối  tháng Mười  năm 1943 hai vợ chồng đã đi  Paris thủ đô nước Pháp. Trong thời gian hơn một năm rưỡi lưu lại ở Pháp,  Mác đã gặp lại Ăng ghen người bạn đã gặp nhau sau một năm trước đó. Từ cuộc gặp gỡ này, hai ông đã có nhiều cuộc nói chuyện cởi mở, tâm đầu ý hợp, trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả vấn đề lý luận và thực tiễn. Hai ông đã cùng nhau thể hiện quan điểm của mình trên các tờ báo có tên tuổi. Trên các bài báo của mình hai ông đã kịch liệt chống mê tín dị đoan, chống quan diểm nghiên cứu khoa học phải phục tùng lợi ích tôn giáo, chống lại sự kiểm duyệt báo chí của nhà nước Phổ không cho tuyên truyền cách mạng. Điều đặc biệt là từ đây Mác đã quan tâm vấn đề cách mạng, bản chất, nguyên nhân và động lực của nó, làm thay đổi cơ bản thế giới quan của Mác từ chủ nghĩa Duy tâm sang chủ nghĩa Duy vật và từ chủ nghĩa Dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa Cộng sản.
      Với tư cách là nhà khoa học thiên tài, Trên cơ sở tổng kết lịch sử thế giới, đặc biệt là sự nghiên cứu công phu về chủ nghĩa tư bản và thực tiễn phong trào công nhân quốc tế, đồng thời kế thừa những giá trị tinh hoa của nhân loại trong các lĩnh vực khoa học và tư tưởng, Mác cùng với Ăng-ghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong tất cả các công trình nghiên cứu lý luận, hai ông đã vạch rõ những quy luật chủ yếu của cuộc cách mạng vô sản, trong đó bước đầu tiên của cuộc cách mạng là “biến giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Đó là tư tưởng xác lập “chuyên chính của giai cấp vô sản”. Đồng thời Mác cũng khẳng định rõ đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển và quy luật bạo lực cách mạng trong việc giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản…..
 Ðây là những cống hiến có ý nghĩa thời đại, hình thành một thế giới quan và một phương pháp luận khoa học và cách mạng, đem lại cho nhân loại và cho giai cấp công nhân một công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới.
        Không chỉ là một nhà tư tưởng, nhà bác học thiên tài, Mác đồng thời là nhà cách mạng vĩ đại. Sinh thành tại nước Ðức giàu truyền thống cách mạng và bôn ba hoạt động ở nhiều nước Tây Âu; Mác từng chứng kiến sự bần cùng của những người lao động làm thuê và sự bất công của xã hội tư bản. Với trái tim nhân hậu thấm đượm tinh thần nhân văn cộng sản và bầu nhiệt huyết cách mạng, Ông đã hiến dâng trọn cuộc đời mình đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thông qua hoạt động trực tiếp trong phong trào công nhân, Mác đưa lý luận thâm nhập vào phong trào, biến lý luận thành lực lượng vật chất to lớn, thúc đẩy cách mạng và sự phát triển của xã hội. Kiên định một cách nhất quán lập trường cách mạng, Mác không bao giờ lùi bước, khuất phục trước sức ép của chính quyền tư sản, đồng thời cũng kiên quyết chống lại mọi biểu hiện giáo điều, cơ hội, xét lại phản bội lý tưởng, mục tiêu cách mạng, đi ngược lại nguyên tắc, quyền lợi của phong trào công nhân. Các Mác là người tổ chức và là lãnh tụ của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28 Tháng 9 năm 1864 ở London. Mác dốc toàn bộ tâm sức của mình để thống nhất phong trào công nhân các nước liên hợp lại.  Người chỉ rõ, phải căn cứ vào điều kiện thực tiễn cụ thể mà đề ra mục tiêu cách mạng phù hợp, giữ vững nguyên tắc nhưng mềm dẻo về phương pháp và linh hoạt về hình thức đấu tranh.
     Hai thế kỷ đã qua kể từ ngày sinh của Các Mác; thế giới đã chứng kiến những sự biến đổi kỳ diệu về sự sụp đổ của một mảng lớn chủ nghĩa đế quốc, thực dân, kéo theo sự ra đời và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên một loạt nước; cũng như sự đổ vở đầu tiên của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa có nhiều khiếm khuyết. Thế nhưng không có nghĩa là những nguyên lý của học thuyết Mác về một xã hội mới đã sụp đổ hoàn toàn; trái lại chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại và tiếp tục phát triển ở nhiều nước, chiếm gần một phần ba dân số thế giới thông qua cải cách, mở cửa và đổi mới.
      Một sự thật hiển nhiên là cuộc cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, lấy chủ nghĩa Mác –Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, đã liên tục giành được nhiều thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới, với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa; không những chúng ta đang đứng vững trước mọi thử thách để tự khẳng định mình mà uy tín và vị thế của nước ta đang ngày một nâng cao trên trường quốc tế. Những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác đang là chìa khóa để giải mã những vấn đề đặt ra trong thời đại mới, tên tuổi cũng như những tư tưởng vĩ đại của học thuyết Mác đang sống mãi trong sự nghiệp chúng ta./.

                                                                                 5-5-2018