Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

Để Tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự làm nền tảng...

 ĐỂ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH THỰC SỰ LÀM NỀN TẢNG
          CHO CHÚNG TA ĐI THEO CON ĐƯỜNG XHCN

         Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khái quát: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề  cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác -Lê Nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”. Vì thế: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
    Tuy nhiên để đi đến việc xác nhận vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh như hiện nay là kết quả của một quá trình nhận thức trong Đảng và qua kiểm nghiệm trong lịch sử. Trước đây, Đảng ta nói: học tập đạo đức, tác phong Hồ Chủ tịch, rồi đến học tập Hồ Chí Minh như một trong những nhà lý luận cách mạng vô sản. Quá trình học tập và đi theo con đường của Người lựa chọn đã giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua mọi khó khăn, kể cả những khó khăn do khủng hoảng kinh tế- xã hội, để giành thắng lợi từng bước, làm cho đất nước thường xuyên ổn định và không ngừng phát triển. Thực tiễn càng ngày càng cho thấy sự chuẩn mực, đúng đắn của Hồ Chí Minh không chỉ ở đạo đức, tác phong, nhân cách, lý luận mà còn là toàn bộ hệ thống Tư tưởng của Hồ Chí Minh. Đây là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta; trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ Nam cho tư tưởng và hành động của Đảng ta. Sức sống và giá trị trường tồn của Tư tưởng Hồ Chí Minh  đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vừa qua đánh giá, thừa nhận.
      Tuy vậy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh quả không phải dễ dàng. Người uyên thâm và vĩ đại; nhưng sự thể hiện của Người qua lời nói, việc làm lại rất cô đọng và giản dị, làm cho chúng ta dễ nhầm tưởng là mình đã hiểu thấu đáo và làm theo đúng ý của Người. Đặc biệt là khi đất nước chuyển sang thời kỳ mới với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong xu thế hội nhập toàn cầu. Bên cạnh những thuận lợi, thời cơ mới, còn không ít những khó khăn và thách thức. Trong Đảng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ làm ảnh hưởng đến sự mất còn của chế độ... Trước  những tệ nạn xã hội như nạn tham nhũng, tệ quan liêu, biểu hiện thoái hoá biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; thì việc xác lập vị trí của Tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho Tư tưởng của Người thực sự làm nền tảng cho chúng ta trên con đường hướng tới XHCN càng trở nên không hề đơn giản.
      Hiện nay có không ít những cán bộ, đảng viên ngày đêm tận tuỵ, miệt mài cống hiến cho đất nước, sự nghiệp, cam chịu cuộc sống bình thường; không ít những cán bộ, chiến sĩ ngày đêm trên biên cương, hải đảo, giữ gìn sự bình yên của Tổ quốc. Đã có rất nhiều những người con ưu tú của Đảng và nhân dân phải hy sinh xương máu của đời mình để chống lại những thách thức, đối đầu thường xuyên với sự chống phá của các thế lực thù địch; trong đó có cả bọn buôn lậu, làm ăn phi pháp, hoạt động theo kiểu xã hội đen....Điều đáng nói là: bên cạnh những cán bộ, đảng viên với những hành động sáng ngời Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, vẫn không phải không có những hành vi, hoạt động theo khuynh hướng hết sức lệch lạc trong Đảng. Đã có không ít những cán bộ, đảng viên “nói một đường, làm một nẻo”. Họ luôn chỉ biết tính toán quyền lợi cho riêng mình, hàng ngày tìm mọi cách, mọi kẻ hở dưới cái gọi là “năng động’, “sáng tạo”, “linh hoạt” ...để tìm cách lấy nhiều tiền bạc của dân phục vụ cho cuộc sống và sự nghiệp thăng quan tiến chức của chính bản thân mình. Họ sẵn sàng chấp nhận cả những bản kỷ luật trước khi rời vị trí công tác ở nhiệm sở...mà không hiểu được rằng: trong điều kiện dân trí ngày một nâng cao, khi cơ chế dân chủ ngày một được áp dụng rộng rãi, càng không thể che kín được tầm giám sát của nhân dân. Thực tế đó đang trở thành những lực cản, ngăn không cho chúng ta  đến với Tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng chế độ mới, đồng thời đang đặt lên bàn cân về uy tín lãnh đạo của Đảng trước dân.
       Toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức thi đua lập nhiều thành tích hướng về kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Trong bối cảnh ấy, mỗi cán bộ, đảng viên còn có một trách nhiệm nặng nề, một việc làm hết sức có ý nghĩa, đó là ra sức học tập, tìm hiểu để nâng thêm những hiểu biết cần thiết về Tư tưởng Hồ Chí Minh; tham gia tự giác vào mọi chủ trương, hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể hướng về kỷ niệm ngày sinh nhật Bác. Trên cơ sở đó mà mỗi người hãy tự soi lại suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình để sao cho phù hợp với mong muốn của Người. Thiết nghĩ đó là những điều kiện không thể thiếu được nhằm làm cho Tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng trở thành nền tảng vững chắc và kim chỉ Nam cho chúng ta trên con đường đi tới CNXH./.

                                                                        Trần Quang Trung
                                                                   Báo Hà Tĩnh 19/5/2003


Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nữ

        TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
                        VỀ CÁN BỘ NỮ               

          Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, một chế độ  dân chủ thực sự là một chế độ  tự do, bình đẳng  giữa mọi thành viên xã hội, không phân biệt dân tộc, tuổi tác, giới tính. Người nói: “Tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai...”. Mọi thành viên trong Nhà nước ấy phải cùng gánh vác trách nhiệm để chăm lo sự nghiệp cách mạng và kết quả mạng lại đều thuộc về nhân dân. Suốt cuộc đời hoạt động của mình người chỉ có một ham muốn tột bậc là “ làm sao để ai củng có cơm ăn, áo mặc, được học hành”. Tuy nhiên theo Hồ Chí Minh để tiến hành sự nghiệp cách mạng nói chung, mọi công việc cụ thể nói riêng không thể có ai trọn vẹn. Trái lại ai củng có cái hay cái dở; đó là lẽ thường tình. Người khoẻ làm việc nặng, người yếu làm việc nhẹ không nên phân biệt đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ. Người nói: “ Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”, “Tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”. Trong quan niệm chi phối ấy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến lực lượng phụ nữ. Người cho rằng: phụ nữ là lực lượng chịu nhiều thiệt thòi nhất, “đã lâu chị em bị kìm hãm” trong xã hội cũ. Xây dựng chế độ mới cần phải giải phóng mọi áp bức bất công cho phụ nữ. “Nếu không giải phóng được phụ nữ thì không giải phóng được một nửa loài người. Nếu không giải phóng được phụ nữ thì xây dựng Chủ nghĩa  xã hội chỉ một nửa”. Như thế muốn giải phóng xã hội, muốn xây dựng CNXH phải quan tâm đúng mức vấn đề phụ nữ và do đó cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ nữ.
        Điều đáng chú ý là Hồ Chí Minh đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ nữ. Người cho rằng: trong quá trình đấu tranh cách mạng nói chung, trong những cuộc kháng chiến to lớn của dân tộc nói riêng “phụ nữ ta gánh một phần quan trọng”. “thành tích không thua kém đàn ông”. Người còn viết: “Xem trong lịch sử kách mạng chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái tham gia”.
                                   “Mấy phen tranh đấu xông pha
                                 Lòng vàng, gan sắt nào đà kém ai”
Có thể nói rằng công lao đóng góp của phụ nữ vào sự nghiệp chung của đất nước là vô cùng to lớn. “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu, mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Trên mọi phương diện phụ nữ đều không thua kém đàn ông. Điều này đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và kết luận từ chỉ số thông minh, chỉ số tình cảm đến chỉ số ứng xử. Người còn cho rằng: cả những công việc nặng nhọc như đi chặt gỗ, đi đắp đường chổ núi non hiểm trở chị em củng làm được. Chẳng những thế trong Tư tưởng Hồ Chí Minh còn cho thấy Người đánh giá rất cao năng lực của người phụ nữ. Đối với những cán bộ lãnh đạo quản lý, phụ nữ còn có những đức tính ưu thế hơn nam giới.
Trước hết phụ nữ vốn mang trong mình bản tính tốt đẹp là “hay lam hay làm”, nên phụ nữ thường biết chi tiêu đúng mức, không hoang phí, bừa bãi; cho nên phụ nữ là lực lượng biết thực hành tiết kiệm có hiệu quả. Người cho rằng phụ nữ: “không hay chè chén”, “ít tham ô, lảng phí”. Đây là một chuẩn mực hết sức quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Đảng và Nhà nước ta hiện nay; nhất là trong thời kỳ chúng ta đang thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực hành đấu tranh chống tham nhũng để làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.
Phụ nữ còn là biểu tượng của nền văn minh. Chính Ăng Ghen đã từng khẳng định rằng: “ Trình độ giải phóng phụ nữ là thước do trình độ văn minh và phát triển của xã hội”. Do cấu tạo tự nhiên, phụ nữ thường được coi là “lực lượng chân yếu tay mềm”. Phụ nữ thường không ưa “đao to, búa lớn”, không thích căng thẳng, nặng nề. Đây là tư chất quý để khi điều hành, quản lý dễ đạt  đến thuyết phục và hiệu quả. Trong xử lý công việc, Hồ Chí Minh vẫn thường khuyên cán bộ nên giải quyết sao cho vừa có lý, có tình. Nhưng để đạt được điều đó đòi hỏi người cán bộ phải xử lý mọi việc nhuần nhuyễn; biết cương, biết nhu đúng lúc. Về điều này Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ nữ “ít hóng hách, mệnh lệnh” hơn nam giới. Đây là đặc tính quý để chúng ta xây dựng và phát huy tốt nhất sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân, thực hiện rộng rãi Quy chế dân chủ trong khắp cả nước.
Trong những năm đổi mới vừa qua, phụ nữ nước ta ngày càng có vị trí xứng đáng nhờ có sự đổi mới trong nhận thức và sự nổ lực phấn đấu của chị em. Nếu như trong cơ cấu đại biểu Quốc hội khoá IX phụ nữ chỉ chiếm 18,48%, thì Quốc hội khoá X đã có 26%.Ở tỉnh ta hoạt động trong phong trào phụ nữ được Đảng, Nhà nước cũng như các cấp uỷ, chính quyền địa phương đánh giá cao. Nhiều chị em đã phấn đấu tốt, đảm nhiệm các chức vụ cao trong các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể. Nhiều phong trào của phụ nữ triển khai có hiệu quả. Chính vì vậy mà nhiều năm liền phụ nữ Hà Tĩnh được Trung ương tặng cờ thi đua xuất sắc, năm 2000 được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng Ba...Tuy vậy theo Tư tưởng Hồ Chí Minh thì “nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến hẹp hòi. Như vậy là rất sai”. Trong nhiệm kỳ cấp uỷ 2001-2005, Tỉnh uỷ viên là nữ chỉ chiếm 8,5%; Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XIV của tỉnh, đại biểu nữ chỉ chiếm 18,3%, đặc biệt ở nhiều xã miền núi số đại biểu này chỉ chiếm xấp xỉ 2%...Từ rất lâu Người nhắc nhở rằng: “cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót”. Để có được đội ngũ cán bộ nữ đông đảo và vững mạnh hơn thì các tổ chức phải quan tâm xây dựng, Đảng cần có chủ trương và chính sách phù hợp, “đặc biệt phải chú ý cân nhắc cán bộ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động thích hợp với phụ nữ”. Song điều đó chưa đủ, bản thân chị em phụ nữ phải ra sức phấn đấu để tự khẳng định mình. Người nói: “Phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải tranh đấu” làm cho mọi người nhận thức được “phụ nữ cũng là người chủ nước nhà”, “ nhận rõ địa vị người làm chủ và nhiệm vụ người làm chủ”. Thấy địa vị làm chủ để phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, “để kịp nam giới, để xứng đáng với mình”. Thấy được nhiệm vụ người làm chủ để tham gia mọi lĩnh vực hoạt động, tham gia bộ máy Đảng và Nhà nước. Để đáp ứng mong muốn của Người dĩ nhiên không đơn giản. Trước hết chị em phụ nữ phải biết sắp xếp tốt công việc chung, riêng; vượt qua được chính mình; “cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá và kỷ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” như Người hằng mong muốn./.
                                                     Trần Quang Trung
                                          

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Tìm hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và một số điểm Người khuyên Nghệ Tĩnh trong công cuộc xây dựng quê hương

TÌM HIỂU QUAN NIỆM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ CNXH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐIỂM NGƯỜI KHUYÊN NGHỆ TĨNH TRONG
CÔNG CUỘC XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG

       Tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ đi đến CNXH đó là điều không tránh khỏi, nhưng họ đến với CNXH không phải một cách hoàn toàn giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ dựa vào đặc điểm cụ thể của mình để lựa chọn những hình thức thích hợp của chế độ dân chủ; các kiểu biến dạng khác nhau của một nền chuyên chính; nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội.
      Quán triệt sâu sắc quan điểm ấy của Lê Nin, gắn quyện với lý tưởng tột bậc ham muốn nước nhà độc lập tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành; Chủ tịch Hồ Chí Minh chẵng những xứng đáng là một vị anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn là một vị lãnh tụ mở đường đưa nhân dân ta từng bước hướng tới CNXH.
       Cho đến nay với sự cống hiến to lớn trên nhiều lĩnh vực của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc cũng như đối với sự phát triển của nền văn hoá thế giới đã được nhiều người nghiên cứu. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, chúng tôi muốn góp thêm một ý kiến nhỏ qua việc tìm hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam và một số điểm Người khuyên Nghệ Tĩnh trong công cuộc xây dựng quê hương.

            I . Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam
         Hơn 70 năm qua, sự tồn tại của CNXH hiện thực đã khẳng định sự đúng đắn những luận điểm cơ bản của Mác-Ăng ghen và những bổ sung của Lê Nin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Tuy nhiên, suốt chặng đường đấu tranh sinh tồn của nó cũng đã để lại không ít những khuyết tật cần được loại bỏ. Đã một thời chúng ta quá say sưa về những gì tốt đẹp nhất của CNXH học thuyết: coi CNXH là sự đối lập tuyệt đối với CNTB. Nhận thức ấy trên thực tế đã làm cho CNXH mang màu sắc đồng dạng, khô cứng, càng ngày càng bộc lộ sức sống hạn chế của nó. Ở Việt Nam, từ ý thức muốn vươn lên xây dựng một xã hội mới; chúng ta đã muốn có ngay một chế độ ưu việt hoàn hảo, nóng vội bỏ qua những hình thức trung gian, quá độ, trong khi chưa có những điều kiện vật chất cần thiết. Kéo theo đó là sự thiếu quan tâm đầy đủ đến những yêu cầu thiết yếu trước mắt của người lao động bình thường.  
       Chủ nghĩa xã hội ở Việt nam theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là loại hình xây dựng từ một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Ở đây nền móng vật chất hết sức nhỏ bé, con người - chủ thể của lịch sử, bị xúc phạm nặng nề trong lòng xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Vì thế, CNXH phải được hình thành trên việc xác lập lợi ích con người, vì con người. Trong đó trung tâm là  người lao động,  trước hết cần phải được trả lại quyền làm người chân chính, được đáp ứng những nhu cầu thiết yếu để họ đảm bảo sản xuất nuôi sống bản thân và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí minh cho rằng mục đích cuối cùng của CNXH là "Không ngừng  nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" (1). Thế nhưng đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm sống trong chế độ phong kiến lạc hậu, sau đó lại chịu sự thống trị ngót trên 100 năm của chế độ thực dân đế quốc và sự tàn phá của chiến tranh; xác định quyền làm người chân chính, giải quyết công ăn việc làm, đảm bảo cuộc sống bình thường của người lao động là yêu cầu phải được đặt lên hàng đầu khi đi vào xây dựng chế độ mới. Người cho rằng: "CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc" (2).
       Thoát thai từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, người lao động từ thân phận nô lệ trở thành "những công dân tự do, làm chủ nước nhà. Đó là thay đổi to nhất"(3). Đi vào xây dựng cuộc sống mới, với hai bàn tay trắng, trước hết họ phải tính đến cái ăn, cái mặc, nghỉ ngơi, đi lại.v.v...Họ phải làm tất cả những cái mà trước đây đã từng phải sống gửi thác nhờ vào giai cấp bóc lột; chính vì vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích: "CNXH là mọi người dân được áo ấm, cơm no, nhà ở tử tế, được học hành"(4). Như vậy, CNXH ở Việt Nam có nét riêng của nó. Trong khi ở các nước kinh tế phát triển đã thoả mãn các nhu cầu về ăn, ở, đi lại...thì trái lại ở Việt nam những nhu cầu ấy còn phải phấn đấu một cách quyết liệt, hơn nữa giải quyết được những caí đó chính là nội dung trước hết của CNXH.
       Đương nhiên, CNXH không chỉ cần dấp ứng nhu cầu vật chất mà còn phải chăm lo đầy đủ cả nhu cầu văn hoá, tinh thần; xác lập các quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau. Đây cũng là cái mà trong xã hội cũ người dân Việt nam chịu nhiều mất mát. Các thế hệ xưa đã khái quát lại trong lời khuyên nhau: "Bầu ơi thương lấy bí cùng...". Vì vậy mà CNXH theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải là một xã hội trong đó con người chan hoà cởi mở, đầy lòng thương yêu nhau. Không chỉ giới hạn trong một quốc gia, mà cả "Bốn phương vô sản đều là anh em". Muốn như vậy theo Người, xây dựng CNXH phải hiểu rõ và thực hiện đồng thời 3 cuộc cách mạng: "Cách mạng quan hệ sản xuất,cách mạng kỷ thuật, cách mạng văn hoá và Tư tưởng"(5). Làm được như vậy CNXH sẽ tạo ra được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu mọi mặt của con người. Con người trong xã hội mới chẳng những no ấm mà còn yêu thương đoàn kết với nhau, sống với nhau chân tình, khoẻ mạnh. Như Vậy : "CNXH là đoàn kết, vui vẻ"(6).
        Cách mạng XHCN là "cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử
             ------------------------------
(1)Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Tập VI, trang 46
(2)      Sđd                                                            trang 19
(3) Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh tập 1.       trang 45
(4)      Sđd                                                            trang 45
(5)  Hồ Chí Minh.Tuyển tập,. Tập 2. H. 19980. Trang 425
(6) Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh Tập 1        Trang 117

loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và khó
khăn nhất"(1). Hoàn thành sự nghiệp cách mạng ấy là công việc của nhiều người. Mọi người phải đóng góp trách nhiệm và nghĩa vụ chứ không thể giành đặc quyền đặc lợi. Nhiệm vụ của công cuộc xây dựng CNXH buộc mọi người phải nổ lực sản xuất để sáng tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Muốn có CNXH thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất"(2).  Hơn 10 năm qua, cả nước đi vào xây dựng CNXH, chúng ta có thêm những thực tế cần thiết để hiểu hơn thế nào là CNXH. Ở nước ta, hiện tượng thiếu ăn, thiếu nhà ở, thiếu điều kiện học hành....còn tồn tại như một thách đố với CNXH. Sự xuất hiện một bộ phận (trong đó khá đông là cán bộ, đảng viên có chức có quyền) vượt ra khỏi cuộc sống đời thường là một sự trái ngược với quan niệm của  Chủ tịch Hồ Chí Minh: CNXH là mọi người sung sướng ấm no chứ không phải chỉ riêng một bộ phận nào. Vì vậy Người còn cho rằng: "CNXH là mọi người cùng ra sức lao động". Chúng ta chống chủ nghĩa bình quân nhưng cũng phải chống cả sự lười biếng trong trách nhiệm. Ông chủ tịch nước cũng phải "gắng làm" việc, tựa "như người lính vâng mệnh lệnh quốc gia ra trước mặt trận"(3). Nghĩa là mọi người cùng ra sức lao động mới là CNXH. Chừng nào còn tồn tại hiện tượng người thì sớm chiều mưa nắng lăn lộn với công việc, người thì "ngồi chơi xơi nước", chừng đó chưa phải là CNXH và chưa có CNXH.
       Đất nước đã nhiều thế hệ sống trong vòng vây ngôi thứ của chế độ phong kiến thực dân và trải qua nhiều cuộc kháng chiến. Nếp sống quan liêu, địa vị, bổng lộc...in đậm trong tiềm thức của  mỗi người. Nhân dân lao động quen cuộc đời lam lũ, chịu khó. Người lãnh đạo chưa có hình mẫu bằng da, bằng thịt của con người mới, nên dễ dẫm bước "lên mặt quan cách mạng". Lẽ ra theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cán bộ là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Cán bộ và nhân dân cùng chung ý chí quyết tâm phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng noi theo một tấm gương sáng của ông cha chúng ta khi xây dựng thượng sách để giữ nước là "vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước chung sức". Nhưng thực tế cho thấy trong công cuộc xây dựng xã hội mới, không ít những cán bộ đã tham ô, bớt xén quyền lợi của dân, cửa quyền ức hiếp quần chúng nhân dân. Tất cả những điều ấy đã đem đến kết quả tai hại là: trật tự xã hội bị rối loạn, kỷ cương bị buông lỏng, đạo đức truyền thống bị xói mòn, làm cho lòng tin của quần chúng vào tiền đề tươi sáng của xã hội mới bị giảm sút. Để giải quyết thực trạng  ấy của nước ta hiện nay, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có biện pháp tổ chức thực tiễn thật tốt. Mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo trật tự kỷ cương. Mỗi người phải tuân theo những quy định, quy tắc, pháp luật và phải hoàn thành trách nhiệm của  mình. Thực tế xây dựng CNXH vừa
qua cho thấy chúng ta không chỉ vấp sai lầm khuyết điểm do định hướng và định 
---------------------------
(1) Hồ Chí Minh Tuyển tập . T2. H. 1980.  Trang 88
(2) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. T6. trang 176
(3)    Sđd                                                        trang 140

lượng mục tiêu cách mạng không thích hợp, trái lại còn còn bị khuyết điểm sai lầm trong việc đề ra các chủ trương, chính sách lớn và đặc biệt là trong tổ chức thực hiện. Trên lĩnh vực này Chủ tich Hồ Chí minh nhấn mạnh: "CNXH là phải có biện pháp"(1).
        Chúng ta đang xây dựng một xã hội mới mà Người ví như: "đang xây đắp ngôi lâu đài mới, thì chắc chắn không khỏi có những  mọn bào, gạch bể và những thứ ghét rác khác . Chúng ta phải quét dần dần"(2).
       Như vậy, trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta phải loại bỏ dần những cái lạc hậu, cũ kỷ dể đồng thời dung nạp những cái mới tiến bộ. Tất cả những điều đó phải diễn ra trong một kế hoạch thống nhất và phải có những biện pháp đảm bảo chắc chắn. Người còn cho rằng: "Đặt kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng chỉ là bước đầu. Kế hoạch 10 phần  thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo thực hiện sát sao phải 30 phần"(3). Vì thế biện pháp trở thành một yếu tố hiện diện của CNXH chúng ta.
        Nghiên cứu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khái quát lại: CNXH ở Việt Nam là sản phẩm của một quá trình xây dựng lâu dài, hình thành nên một xã hội trong đó mọi thành viên đều có áo ấm, cơm no, nhà ở tử tế, được học hành. Trong xã hội ấy người lao động sống đoàn kết, thân ái, vui vẻ, khoẻ mạnh để cùng nhau ra sức lao động trong một kế hoạch, biện pháp điều hành của toàn xã hội. Thông qua những định nghĩa vắn tắt, mộc mạc về CNXH ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xem xét CNXH  dưới các góc độ khác nhau như bản chất, mục tiêu, đặc điểm của nó...đang trong quá trình  hình thành xã hội mới, chứ không định nghĩa một cách hoàn chỉnh về một CNXH đầy đủ. Điều này hoàn toàn không trái với chủ nghĩa Mác-Lê Nin trái lại còn rất phù hợp khi chúng ta thấy Lê Nin đã từng nói: "chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt tới những hình thức hoàn chỉnh của nó, điều đó chúng ta không thể biết, không thể nói lên được"(4). Có thể nói sự nhào nặn và vận dụng nhuần nhuyễn lý luận vào thực tiễn Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hình dung nên một CNXH phù hợp trong điều kiện nước ta, đó là yếu tố rất cơ bản để đưa nhân dân ta đến với CNXH một cách tự nhiên hấp dẫn. Rất tiếc là trong quá trình thực hiện sau này chúng ta chưa làm được đúng theo tinh thần chỉ đạo của Bác.
        Làm thế nào để xây dựng được CNXH ở Việt Nam ? đó là một câu hỏi lớn đối với các thế hệ chúng ta. Các bậc tiền bối của Chủ nghĩa cộng sản khoa học luôn luôn nhấn mạnh rằng: "Các quan hệ sản xuất mới cao hơn không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện vật chất cho sự tồn tại của nó đã chín muồi" (5). Điều đó
 --------------------------      
    (1)(2) Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh      trang 16
    (3)  Hồ Chí Minh Tuyển tập, tập 2. H. 1980. trang 360
    (4)  Lê Nin Toàn tập Tập 36. Nxb Mácơ va. 1977. trang 82-83
    (5)  Lê Nin toàn tập. T13.Nxb . Mátcơ va. 1978. trang 7

có nghĩa muốn xác lập một phương thức sản xuất mới với quan hệ sản xuất mới cao hơn quan hệ sản xuất xã hội cũ, nhất thiết phải đẩy mạnh sản xuất vật chất để nâng cao tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
    Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến, lại bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa. Điều này có nghĩa là chúng ta chưa đi qua, hơn nữa cũng chưa bước đến "Phòng chờ của CNXH". Chúng ta bắt đầu đi những bước đầu tiên, xây dựng mới tất cả từ đầu: từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ hạ tầng cơ sở đến kiến trúc thượng tầng. Trong điều kiện đó Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: 'Trước hết phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm".
     Tăng gia sản xuất nghĩa là sản xuất ra sản phẩm xã hội ngày càng nhiều thêm. Đó là điều kiện tiên quyết để đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, sau đó có dư thừa để tích luỹ, cải thiện đời sống và xây dựng những công trình mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Tăng gia sản xuất là sản xuất ngày một mạnh mẽ, có cái để dùng, có cái để trao đổi phục vụ các nhu cầu khác, để người lao động không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Phải "không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao mãi đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân"(1). Điều lý thú mà chúng ta nhận ra trong ý tứ của Người là chổ phải tăng gia sản xuất, vì sản xuất ra của cải vật chất là công việc bình thường, tự nhiên của mọi xã hội. Mác đã từng khẳng định: Con người sẽ chết , không nói là trong một vài tuần, mà chỉ trong một ngày nếu xã hội ngừng sản xuất ra của cải vật chất. Nghĩa là ở nước ta muốn xây dựng xã hội mới phải làm cho sản xuất một ngày một phát triển, phải đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức sản xuất sao cho có hiệu quả cao nhất, nhanh chóng thoả mãn nhu cầu tối thiểu, để sau đó nâng cao dần mức sống cho nhân dân. Nhìn lại sau gần 15 năm xây dựng CNXH chúng ta thấy còn rất nhiều việc phải làm. Đất nước chưa qua được thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội, chưa ổn định được tình hình và đời sống của nhân dân. Chúng ta chưa vượt qua được cửa ải lương thực...Tình hình đó chưa cho phép chúng ta nghĩ tới cuộc sống mới cao hơn, trái lại buộc chúng ta phải đặt mức phấn đấu đảm bảo mức sống của những năm đã qua. Điều đó nhắc chúng ta phải ngẫm nghĩ kỹ hơn những lời căn dăn của Bác .
      Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì tăng gia sản xuất là cái lõi làm thay đổi bước tiến xã hội, đẻ chuyển dần từ cuộc sống nghèo nàn sang cuộc sống ấm no hạnh phúc.
      Gắn bó với tăng gia sản xuất là thực hành tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Tăng gia sản xuất và tiết kiệm là một chính sách căn bản của chúng ta"(2).
Điều đó có nghĩa là trong quá trình xây dựng CNXH, sản xuất phải gắn chặt với tiết kiệm, sản xuất không tiết kiệm như "gió thổi vào nhà trống". Tiết kiệm là vấn đề có
---------------------------
(1) Những lời kêu gọi của Hồ chủ tịch. tập 7. trang 327
(2)                     Sđd                               tập 3. trang 186.

tính quy luật của mọi nước trong quá trình tích luỹ ban đầu để xây dựng xã hội mới. Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh thực hành tiết kiệm là hành động tiết kiệm thực sự chứ không phải chỉ là những lời kêu gọi, những khẩu hiệu, hay dừng lại ở những chủ trương. Phải thực hành tiết kiệm còn bắt nguồn từ điểm xuất phát điểm nước ta đi lên CNXH ở trình độ rất thấp; từ sự cân đối giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng sản xuất; từ sự đảm bảo đời sống với việc mở rộng sản xuất. Điều đặc biệt quan trọng buộc chúng ta phải chú ý thường xuyên việc thực hành tiết kiệm là chổ: cơ sở kinh tế chủ yếu của nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất chưa đủ ăn, lại thường xuyên đứng trước sự đe doạ của thiên nhiên khắc nghiệt. Trong hoàn cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Nếu được bữa nào xào bữa ấy thì sẽ thiếu thốn". Do đó, chúng ta phải luôn luôn nghỉ đến "bát ăn bát để" phòng khi giáp hạt mất mùa. Điều đáng chê trách đối với chúng ta là không phải ai ai cũng đã thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch. Đặc biệt là một số người khi có được địa vị ổn định trong xã hội đã vội nghĩ ngay đến cuộc sống vương dã tách rời khỏi đời sống hiện thực của xã hội. Hiện tượng chè chén, nhậu nhẹt đang còn tồn tại ở nhiều địa phương. Không ít kẻ lợi dụng "Đục nước béo cò" đã tham nhũng của dân hàng trăm lượng vàng để sống cuộc đời phè phởn. Đó là chưa nói tới việc chúng ta đã xây dựng những công trình gây tốn kém, phát huy hiệu quả rất thấp.v.v...Tất cả đó đều góp lại làm hạn chế kết quả của chúng ta trong công cuộc xây dựng CNXH hiện nay.
         Là người con của dân tộc suốt đời tận tuỵ hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu tường tận đất nước, con người chúng ta, sớm nhận rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc cách mạng XHCN; xây dựng CNXH thực chất là một cuộc kiến thiết về kinh tế. Người còn nhấn  mạnh rằng: "Thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều"(1). Vì thế, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm là biện pháp trước hết và là chính sách căn bản, nhưng để làm được việc này nhất thiết phải có con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có những con người XHCN". Người còn giải thích rõ con người XHCN là con người có ý thức làm chủ và tinh thần tập thể XHCN; quan điểm tất cả phục vụ sản xuất; ý thức cần kiệm xây dựng nước nhà"(2), là con người có tư tưởng và tác phong XHCN; "thấm nhuần đạo đức XHCN". Một đòi hỏi có tính nguyên tắc đối với con người mới XHCN là phải có tinh thần dũng cảm chống lại kẻ thù hung ác nhất của CNXH là chủ nghĩa cá nhân-đó là "mẹ đẻ ra các tính hư tật xấu như lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lảng phí, tham ô.v.v..."(3). Đương nhiên, con người XHCN đầy đủ phải được hình thành trong một quá trình và gắn liền với việc hình thành phương thức sản xuất XHCN. Nhưng con người xét dưới góc độ là bộ phận
--------------------------------
(1) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch . Tập VI. trang 8
(2)                    Sđd                                                trang 179
(3)                    Sđd                                                trang 170

của lực lượng sản xuất thì một số yếu tố quan trọng của con người XHCN có thể được xây dựng và phát triển sớm hơn sự ra đời và phát triển của một phương thức sản xuất mới. Vì vậy cần tránh một sự ngộ nhận: Con người XHCN là con người trọn vẹn hoàn chỉnh. Hiểu như vậy sẽ dẫn đến nhận thức không đúng rằng: Không bao giờ có con người mới khi chưa có cơ sở kinh tế bền vững, dẫn đến phủ nhận khả năng xây dựng CNXH của nhân dân ta. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì do yêu cầu của sự nghiệp cách mạng mới đòi hỏi chúng ta phát huy tính độc lập tương đối của ý thức- nghĩa là phải có những hiểu biết cơ bản về một xã hội mới mà chúng ta cần xây dựng, từ đó để xây quyết tâm cao: "Kế hoạch một phần, biện pháp phải 2 phần và quyết tâm phải 3 phần"(1). Chúng ta cũng không thể nói rằng: như vậy là duy ý chí, là quá nhấn mạnh yếu tố tinh thần vì chính Chủ tich Hồ Chí Minh đã đặt ra nguyên tắc cho tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta là: "Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc; phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng. Chớ đem chủ quan của mình thay thế cho điều kiện thực tế"(2). Trái lại, trên điều kiện cụ thể của đất nước, mà coi trọng yếu tố quyết tâm, tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, tư tưởng thông suốt chấp nhận những gian nan thậm chí có những "bước quanh co thụt lùi" để cuối cùng tiến đến với CNXH.
        Trong  con người XHCN, yếu tố cơ bản nhất chi phối hiệu quả hoạt động cải tạo xã hội đó là tri thức. Vì vậy, xây dựng CNXH gắn với việc phát triển văn hoá và khoa học kỷ thuật. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn xây dựng CNXH thì nhất định phải có học thức"(3). Điều này do mục đích cuối cùng của CNXH là phải nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân quy định, mặt khác do tính chất của công cuộc xây dựng xã hội mới đòi hỏi. Theo Người, so với thời gian nan, cực khổ của thời kháng chiến, thì bây giờ vẫn "Khó khăn hơn, to lớn hơn, phức tạp hơn"(4). Vì vậy, không thể chỉ dùng sức mạnh hay quyết tâm là đủ, chúng ta còn phải dùng cả trí tuệ loài người - đẩy mạnh phát triển khoa học kỷ thuật; để thúc đẩy hiệu quả  phát triển kinh tế. Xây dựng CNXH đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải "Thạo về chính trị và giỏi về chuyên môn", không thể lãnh đạo chung chung . Chúng ta phải ra sức đào tạo thật nhiều cán bộ kỷ thuật, cán bộ quản lý giỏi để phát triển sản xuất, đồng thời phải đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỷ thuật vào sản xuất trong nhân dân. Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện cho nhân dân lao động có thể nắm được những hiểu biết khoa học kỷ thật để tăng năng suất lao động. Thực tế xây dựng CNXH mấy năm qua đang đặt ra nhiều vấn đề  cho chúng ta suy nghĩ. Một là sự nâng cao trình độ văn hoá có tính phổ cập cho toàn dân còn gặp khó khăn. Hiện tượng trẻ em phải bỏ học còn nhiều. Riêng công nhân cao su đã có hàng ngàn người mù chữ. Hai là việc đẩy mạnh khoa học còn nhiều hạn chế. Mức đầu tư cho khoa
------------------------------
(1)                    Sđd                                                  trang 137
(2)                    Sđd                                                  trang 179
(3)                    Sđd                                                  trang 170
(4)  Hồ Chí Minh Tuyển tập. Tập 2. Nxb H. 1980. trang 255

 học của chúng ta còn rất thấp, trong khi các nước phát triển đầu tư từ vài trăm đến 1000 đô la cho mỗi người hàng năm, thì chúng ta chỉ khoảng 1.000 đồng tức xấp xỉ 20 xu đô la mỗi người hàng năm (1). Vì vậy đã có người cho rằng: trong tất cả những sự mất mát của chúng ta hơn 10 năm qua thì sự lảng phí về chất xám là lớn nhất. Đồng chí Đỗ Mười cũng đã nói: "Hiếm có nước nào rên thế giới mà trong thời đại cách mạng khoa học kỷ thuật ngày nay các định mức kinh tế-kỷ thuật năm 1988 lại lạc hậu di so với 10-20 năm trước đây, như nước ta"(2) Có thể nói tất cả những thực tế đang tồn tại không thể không làm cho chúng ta trăn trở và xúc động khi nhớ lại lời dặn của Bác Hồ: "Chớ để có người mù chữ lại"(3).
       Xây dựng CNXH, mục đích cuối cùng là vì lợi ích con người, vì vậy mà chủ tịch Hồ Chí Minh còn có quan niệm rằng: Muốn xây dựng thành công CNXH phải giải quyết đúng đắn lợi ích của người lao động. Tính chất phức tạp lâu dài của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi mỗi người trước hết phải chịu đựng gian khổ, thắt lưng buộc bụng để kiến thiết đất nước. Người nói" Xây dựng CXNXH cũng như làm ruộng. Trước hết phải khó nhọc cày bừa, chân bùn tay lấm, làm cho lúa tốt thì mới có gạo ăn"(4). Xây dựng CNXH phải chống thói "cầu an hưởng lạc", " ngồi mát ăn bát vàng". Để có được CNXH trước mắt mọi người chưa thể  lo xây nhà cao cửa rộng mà phải dốc sức để ổn định đời sống, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Tuy nhiên để mọi người có thể đóng góp hết sức mình cho CNXH cần phải đảm bảo lợi ích của người lao động. Nguyên tắc phân phối phải công bằng: làm nhiều, hưởng nhiều, làm ít hưởng ít; có sức lao động không làm không hưởng . Điều quan trọng là làm sao để người lao động yên tâm phấn khởi xây dựng CNXH trong mọi hoàn cảnh. Người đã lưu ý chúng ta cần phải đảm bảo thật sự công bằng xã hội, nhất là khi cuộc sống chúng ta chưa được thoả mãn mọi nhu cầu. Người nhấn mạnh: "Chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng". Đặc điểm đáng chú ý là nước ta trong quá trình xây dựng CNXH, cùng một lúc chịu sự tác động của hai loại quy luật: Quy luật xây dựng và quy luật chiến tranh. Trong xây dựng CNXH sự hy sinh  đóng góp của mọi người còn có thể ước tính được, nhưng hy sinh đóng góp trong chiến đấu thì không thể có đơn vị đo lường. Bởi vậy phải có chính sách ưu đãi đối với các gia đình và cá nhân đã đóng góp xương máu cho công cuộc cách mạng. Muốn làm tốt những công việc ấy  chúng ta còn phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích của Nhà nước với tập thể, giữa tập thể với từng cá nhân, gia đình. "Đảng phải lo toan từ việc lớn đến việc nhỏ như đến cả tương, cà, mắm, muối của dân"(5). CNXH phải đem lại hạnh phúc cho mỗi gia đình chứ không phải chỉ quan tâm đến trách nhiệm và nghĩa vụ  của người lao động; để xã hội thì tốt đẹp và người

-----------------------------
(1) Theo GS Vũ Đình Cự, Báo Nhân dân ngày 2/6/1989
(2) Đỗ Mười phát biểu tại kỳ họp thứ IV Quốc hội Khóa VIII
(3) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch , Tập VI, trang 144
(4)                 Sđd                                                   trang 8

lao động khi hết tuổi trở về lại phân vân về chế độ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Xã hội tốt thì gia đình tốt, gia đình tốt thì xã hội tốt. Hạt nhân xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng CNXH mà phải chú ý đến hạt nhân cho tốt"(1).
      Thực tế cho thấy, thời gian qua sự mất công bằng trong quyền lợi và nghĩa vụ, không chú ý đảm bảo lợi ích thoả đáng của người lao động, không cân đối giữa nhu cầu đời sống  và nhu cầu xây dựng đất nước đã gây cản trở lớn cho  cho công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.

             II. Một số điểm Người khuyên Nghệ Tĩnh trong công cuộc xây dựng quê  hương
        Điều mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm sao tỉnh phát huy được tiềm năng, khắc phục khó khăn để xây dựng tỉnh nhà thành tỉnh khá nhất, là tỉnh gương mẫu trong cả nước. Trong muôn vàn sự bộn bề của công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên theo dõi sát sao tình hình phát triển của địa phương. Quê hương đối với Người là vì: " Nghĩa trọng tình cao", chứ không phải là nơi đặc biệt cần ưu đãi; Người đã dùng nhiều cương vị khác nhau chứ rất ít khi dùng danh nghĩa Chủ tịch nước, để khuyên chúng ta một cách chân tình, không áp đặt. Sự quan tâm to lớn của Người thể hiện trên nhiều mặt: kịp thời động viên, cổ vũ, biểu dương khen ngợi những điển hình, những cá nhân có thành tích; góp những ý kiến quan trọng, chỉ bảo cán bộ nhân dân địa phương nhằm phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời Người cũng phê phán nghiêm khắc những cái chưa hay, chưa tốt của tỉnh nhà. Có thể nói tất cả những ý kiến của Người phát biểu trên nhiều lĩnh vực hoạt động của địa phương vẫn là những lời căn dặn quý báu cho quê hương ta trong công cuộc xây dựng ngày nay. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua một số vấn đề cụ thể sau đây :
       Về phương hướng phát triển kinh tế: Người khuyên chúng ta phải chú ý phát triển nhiều ngành, nhiều mặt, nhưng tập trung nhất ở Nghệ Tĩnh là phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Người nói: "Muốn nâng cao đời sống nhân dân thì nhất định phải phát triển mạnh nông nghiệp". Phát triển nông nghiệp để giải quyết bằng được nhu cầu lương thực. Người còn nói rõ thêm: "Nhiệm vụ trước mắt chúng ta là làm sao có đủ lương thực. Cái đó không dễ đâu, nhưng cố gắng sẽ làm được" . Để giải quyết được lương thực trong điều kiện đất đai Nghệ Tĩnh phải chăm lo làm thuỷ lợi cho tốt, đó là " công việc chống trời", "quan trọng bậc nhất" đòi hỏi phải nhiều người mới làm nổi. Tuy nhiên, ở Nghệ Tĩnh nếu chỉ lo việc cấy lúa thì không thể giải quyết được đủ lương thực. Bởi vậy, cùng với việc đẩy mạnh sản xuất lương thực phải phát triển chăn nuôi, trồng cây công nghiệp xuất khẩu. Người cho rằng: "Nếu chỉ chú trọng lúa mà không chăm nom ngô, khoai, sắn cũng không được. phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, công cụ sản xuất sao cho chất lượng tốt, giá rẻ để đáp
ứng nhu cầu của nhân dân. Hoặc chỉ chăm về cây lương thực mà không chăm về
 -------------------------------
(1)                Sđd                                      Tập V, trang 281

cây công nghiệp cũng là khuyết điểm". Người còn khuyên nhân dân ta tổ chức để phát triển và khai thác nghề rừng, nghề biển là những thế mạnh của Nghệ Tĩnh. Đối với công nghiệp nên Như vậy, nắm vững đặc điểm quê hương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vấn đề cấp bách cần giải quyết của tỉnh nhà là lương thực, nhưng không phải vì lương thực mà bỏ qua tất cả các ngành khác. Trái lại phải sử dụng sức mạnh của việc phát triển kinh tế nhiều ngành  mà phục vụ cho mục tiêu cấp bách trước mắt.
       Hơn 10 năm qua, kể từ khi hợp nhất hai tỉnh, chúng ta đã chú ý làm theo lời chỉ dẫn của Bác. Tất cả các kỳ Đại hội, Đảng bộ luôn luôn xác định mục tiêu phấn đấu quyết liệt hàng đầu là tự cân đối đủ lương thực trong tỉnh. Chúng ta đã  xây dựng hàng loạt công trình thuỷ lợi từ Kẻ Gỗ, Vách Bắc, Nam-Hưng-Nghi, Đức Can đến Nghi Xuân, Sông Rác... Tuy vậy có lúc chúng ta vẫn chưa chú ý hết tính hiệu quả của nó. Các chỉ tiêu lương thực đề ra qua các kỳ Đại hội ít khi đạt được. Điều đáng chú ý là cả thời kỳ dài chúng ta chậm nhận rõ việc giải quyết lương thực bằng các ngành khác, nguồn khác. Còn không ít những ngành, những cấp vì chạy theo lợi ích trước mắt mà coi nhẹ mục tiêu kinh tế cơ bản của chúng ta. Bởi vậy cho đến nay tỉnh ta vẫn "Chưa mở được hướng đi thật rõ" cho việc phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp. "Bình quân ngoại tệ thu được thua kém hai tỉnh bạn cùng điều kiện là Thanh Hoá và Bình Trị Thiên". Bình quân lương thực đầu người thấp thua bình quân cả nước và nhiều tỉnh bạn. Tóm lại là chúng ta vẫn còn đang ở trong tình trạng mất cân đối lớn, còn nhiều khó khăn to lớn trên nhiều mặt, kinh tế phát triển chậm dẫn đến: "sản xuất chưa đủ ăn, thu chưa đủ chi, nhiều nhu cầu xã hội cấp thiết chưa có điều kiện kinh tế để giải quyết". Thực tế  ấy đng thôi thúc mỗi chúng ta ôn lại lời căn dặn của Bác Hồ.
    Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khuyên nhân dân ta xây dựng cuộc sống mới phải gắn với việc phê phán, bài trừ các tệ nạn hủ lậu, gây lảng phí tiền của nhân dân. Người luôn mong muốn quê hương giữ gìn những truyền thống tốt, phát huy được những cốt cách "thuần phong mỹ tục" và sự gương mẫu của quê nhà. Vì vậy Người phê phán những tệ nạn hủ tục của địa phương. Người cho rằng việc nấu rượu, uống rượu bừa bãi "là có hại đến thuần phong mỹ tục, có hại đến sản xuất", "say thì sưa, nói dại, làm dại, ăn cắp, ăn trộm hại đến sản xuất, hại đến tiết kiệm, hại đến đạo đức". Chúng ta phải đồng thời phê phán nạn đồng bóng, mê tín lạc hậu để xây dựng thuần phong mỹ tục. Chống tham ô lảng phí gắn với thực hành tiết kiệm. Người phê phán tệ nạn lảng phí là: "Không tôn trọng của công, không thương xót mồ hôi nước mắt của đồng bào". Người còn dặn rằng đối với tất cả thói hư tật xấu, mỗi người phải tự nguyện, tự giác chống lại một cách chủ động, không chờ mệnh lệnh cấp trên.
     Người còn nói rất hình ảnh để khuyên nhân dân ta rằng: "Sản xuất không tiết kiệm thì cũng như rót nước vào cái ống không đáy".
     Sinh ra trên quê hương có truyền thống hiếu học và cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những rất tôn trọng quá khứ của quê hương mà Người còn hiểu rõ trách nhiệm nặng nề, yêu cầu to lớn của sự nghiệp cách mạng mới. Trong kháng chiến Nghệ Tĩnh anh hùng, đóng góp to lớn sức của, sức người. Cán bộ nhiều người có công lao, thành tích. Đi vào xây dựng xã hội mới với những đòi hỏi mới, Người khuyên chúng ta phải chống tự cao tự đại, cục bộ địa phương, phải khiêm tốn học hỏi. Kháng chiến cần sự hy sinh, xây dựng cũng còn cần sự hy sinh và người dám hy sinh quyền lợi cá nhân, bộ phận để phục vụ lợi ích chung. Nếu như trong kháng chiến cần có những anh hùng thì trong xây dựng cũng rất cần những anh hùng, những anh hùng với nội dung mới. Người nói: anh hùng ngày nay không phải "đông chinh tây phạt",  "làm việc kỳ khôi", mà nuôi nhiều lợn, nhiều gà, sản xuất giỏi, tiết kiệm giỏi là anh hùng. Để có nhiều anh hùng và xây dựng thành công CNXH, Người khuyên chúng ta phải khiêm tốn học tập. Khi có công lao thành tích  chớ vội "sỉnh mũi như cái đình", "vác mặt lên", "Không coi ai ra gì". Người còn nhấn mạnh: "Phát triển công nghiệp cần có văn hoá, phát triển nông nghiệp cũng cần có văn hoá". Chúng ta phải học văn hoá, học kỷ thuật, học tập lý luận Mác-Lê Nin...Mỗi địa phương cần cử người đi học tập kinh nghiệm các xã giỏi, học tập kinh nghiệm các tỉnh bạn, học tập lẫn nhau... Theo Người thì không học, không có tri thức, thì không thể làm cách mạng; nhưng học không phải để làm quan mà "để lao động cho tốt", "để làm đầy tớ của nhân dân".
        Đối với chúng ta học tập, nâng cao trình độ hiểu biết của toàn xã hội còn là yếu tố cơ bản để chống chủ nghiã kinh nghiệm, chống bảo thủ trì trệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn quê hương ta: "Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân, cột tay người ta, phải vất nó đi". Trong khi tỉnh ta "Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỉ lại, thiếu kiến thức đang là trở lực của công cuộc đổi mới" thì vấn đề đẩy mạnh học tập và học tập thực sự có hiệu quả là điều vô cùng khẩn thiết.
      Để quê hương xây dựng thành công CNXH, thực hiện được những điều mong muốn nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh không quên khuyên Nghệ Tĩnh cần chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng.
      Sự vận động tự nhiên của cách mạng ngày càng đòi hỏi tính năng động của con người. Ngược lại con người theo sự phát triển của xã hội, thế hệ này nhường bước cho thế hệ mai sau. Từ đó, Bác không những chăm lo xây dựng đội ngũ kế tục sự nghiệp cách mạng chung, mà còn chỉ rõ cho quê hương phải bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của mình. Trước hết phải bố trí đội ngũ có già, có trẻ. Người hỏi chúng ta: "không cất nhắc cán bộ trẻ thì rồi đây sẽ lấy ai thay thế?". Bố trí đội ngũ cán bộ có già, có trẻ phải tránh suy bì, tỵ nạnh, so sánh địa vị, đãi ngộ". Người còn nhắc lời người xưa: "Con hơn cha là nhà có phúc", vì vậy không thể ngồi than phiền "măng sao mọc quá pheo". Người còn cho rằng dùng người phải khéo léo, tế nhị. Cán bộ ai cũng có ưu điểm, khuyết điểm. Người khuyết điểm ít, kẻ khuyết điểm nhiều nên phải biết dùng người. Bác còn dặn: "Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chổ mà dùng được". Chúng ta cần phải tránh khuynh hướng" chật hẹp, bao biện", phải có thái độ rộng lượng bao dung. Những chuyện cũ đã qua không nên đào bới trở lại. Việc đưa cán bộ nữ, cán bộ trẻ, vào giữ các cương vị các cương vị trọng trách là cần thiết. Ngay từ năm 1966, Người đã nhấn mạnh: "trẻ trên 30 tuổi cũng đã già". Xây dựng đội ngũ cán bộ,  Người quan tâm nhất là xây dựng sự đoàn kết, đoàn kết giữa cấp trên với cấp dưới, đoàn kết giữa cán bộ già với cán bộ trẻ, cán bộ cũ với cán bộ mới; đoàn kết giữa các địa phương với nhau; đoàn kết giữa các thành phần dân tộc. Bởi vậy theo Người CNXH là đoàn kết và muốn có CNXH cũng phải đoàn kết.

                                               Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh
                                             Nxb Nghệ Tĩnh. 1990. trang 343-347

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

Nơi khẳng định quyết tâm đi theo con đường cách mạng của Nguyễn Sĩ Sách

TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÁP-VIỆT, NƠI KHẲNG ĐỊNH QUYẾT TÂM ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN SĨ SÁCH
                                                         ---------
                                                  Th.S  Trần Quang Trung
                                                                   

        Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Tú Viên, xã Thanh Lương,  huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Sĩ Sách chịu ảnh hưởng lớn của truyền thống gia đình và quê hương cách mạng. Thân sinh của Nguyễn Sĩ Sách là một nhà nho cương trực, không bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, uy vũ của các quan lại thực dân và chính quyền phong kiến Nam triều. Hai lần đi thi Hương ông chỉ đỗ tú tài. Từ đó ông quyết tâm mở trường dạy học để có điều kiện rèn cặp con cái nên người. Nguyễn Sĩ Sách là con đầu lòng nên được cha chăm sóc, kèm cặp chu đáo. Ngay từ khi một tuổi anh đã được cha dạy học chữ hán và chữ Quốc ngữ.
      Nghệ An quê hương anh là nơi có nhiều người nổi tiếng, ham học, hay chữ với những tấm lòng nhiệt huyết cách mạng. Khi  trưởng thành anh đã không khỏi không chịu ảnh hưởng truyền thống nho học yêu nước, bất hợp tác với giặc. Những bậc thầy, bậc đàn anh của Nguyễn Sĩ sách như Phan bội Châu, Nguyễn Ái Quốc…mà tên tuổi của họ đã từng gắn bó hoà nhập với lịch sử dân tộc, luôn được Nguyễn Sĩ Sách trân trọng, ngưỡng mộ phấn đấu như những đệ tử trung thành.
      Nguyễn Sĩ Sách sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh một đất nước nô lệ; hàng ngày phải chứng kiến những cảnh bất công, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đã nung nấu thêm trong anh lòng nhiệt huyết cách mạng. Lúc anh ở độ tuổi thanh niên cũng là lúc có thể chứng kiến được những phong trào yêu nước mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân từ phong trào công nhân, nông dân đến phong trào trí thức học sinh đang phát triển mạnh mẽ nhất là vào những năm đầu của thế kỷ XX.
       Vốn có tư chất thông minh, lại được thân sinh quan tâm chăm sóc; Nguyễn Sĩ Sách đã sớm thể hiện năng khiếu cứng rắn, nhạy cảm về chính trị của mình. Năm mười một tuổi anh đã đỗ đầu kỳ thi tuyển sinh, mười ba tuổi đỗ thứ hai kỳ thi tiểu học, mười bảy tuổi đã thi đỗ Thành chung khoá đầu tiên của Trường trung học Thành phố Vinh, Nghệ An. Đây là tiền đề quan trọng giúp anh thấy rõ hơn con đường đang đi phía trước.
        Tuy nhiên, cũng phải đợi đến lúc anh tự lập vào đời, rời xa bố mẹ thì Nguyễn Sĩ Sách mới thể hiện được đầy đủ bản lĩnh của mình. Giữa năm 1924, sau khi thi đỗ Thành chung, Nguyễn Sĩ Sách được bổ dụng làm trợ giáo tại Trường tiểu học Pháp-Việt, Thị xã Hà Tĩnh. Có thể nói đây là bước ngoặt hết sức quan trọng trong cuộc đời hoạt động của anh. Bởi chính nơi đây với công việc của một trợ giáo anh vừa có điều kiện thuận lợi tiếp cận sách báo bổ sung kiến thức, tiếp nhận thông tin trong nước và thế giới, tiếp cận với các tổ chức yêu nước có môi trường thầy giáo, học sinh đông đảo để tiếp xúc, đón nhận và truyền bá những quan điểm tiến bộ của mình. Cũng ở thời điểm này có 3 sự kiện tác động mạnh đến tình cảm và hành động của Nguyễn Sĩ Sách cũng như những thanh niên đương thời đó là:
                 Từ sau cuộc cách mạng tháng mười Nga năm 1917 thành công, tiếp đến là sự ra đời của Quốc tế cộng sản, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc bị áp bức trên thế giới dâng lên một cách mạnh mẽ, tạo nên sự chấn động và có sức thu hút lớn các chính trị gia của các nước đang đấu tranh chống áp bức bóc lột để giành độc lập dân tộc.
                 Trong nước phong trào yêu nước phát triển, đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam đang có những bước chuyển về chất, sau cuộc đấu tranh của hàng ngàn công nhân Ba Son, yếu tố đấu tranh tự giác đang ngày một rõ nét. Các tổ chức cách mạng của thanh niên từng bước được nhen nhóm đang có sức thu hút mạnh mẽ tầng lớp thanh niên trong nước.
                 Sau sự kiện vang dội của tiếng bom Phạm Hồng Thái- người thanh niên yêu nước Việt Nam bất chấp hiểm nguy ném tạc đạn vào tên Toàn quyền Đông Dương Méc-Lanh ở Sa Diện Trung Quốc, “báo hiệu bắt đầu thời kỳ đấu tranh dân tộc”(1). Trong các trường học ở Việt Nam, những quan đốc học thời Pháp hết sức miệt thị người Việt, thường xuyên răn đe, doạ nạt trấn áp thầy giáo học sinh có tư tưởng yêu nước, chống lại người Pháp càng giúp cho những trí thức có xu hướng tiến bộ có thêm điều kiện để nhận diện đúng hơn về cái gọi là “khai hoá văn minh” của chế độ thuộc địa của Pháp.
                Những tác động trên đã khiến cho Nguyễn Sĩ Sách càng thêm quyết tâm chọn lựa con đường cách mạng của mình. Trước hết anh ra sức tìm hiểu các biến động về chính trị xã hội, háo hức bí mật tìm đọc sách báo tiến bộ, thăm dò hoạt động cứu nước và quan hệ mật thiết với các bậc sĩ phu yêu nước đương thời. Thông qua việc tiếp xúc, tìm hiểu sách báo, anh dần dần có ý thức về những gì đang diễn ra trong xã hội Việt Nam. Từ đó anh hăng hái tham gia mọi hoạt động cách mạng. Tháng 7 năm 1925 Nguyễn Sĩ Sách được gia nhập Hội Phục Việt, đây là tổ chức cách mạng đầu tiên mà anh được tham gia do các phần tử trí thức yêu nước sáng lập. Nguyễn Sĩ Sách vốn là một con người bộc trực, như cụ Đặng Thai Mai đã từng nhận xét: “lời nói cũng như tâm hồn anh là cả một khối lửa, anh ít nói nhưng suy nghĩ nhiều, bởi vậy tiếng nói của anh có sức nặng”. Được đoàn thể giao nhiệm vụ xây dựng tổ chức và truyền bá tư tưởng yêu nước trong trường học và địa bàn thị xã Hà Tĩnh; anh hăng hái lao vào hoạt động một cách tích cực. Anh chọn trường Tiểu học Pháp Việt làm vườn ươm những nhân tố tích cực cách mạng đầu tiên; bí mật tìm đọc sách báo tiến bộ từ Pháp gửi sang và dịch ra tiếng Việt những bài  quan trọng để tuyên truyền rộng rãi trong đội ngũ học sinh và thầy giáo có tinh thần yêu nước. Chẳng bao lâu anh đã xây dựng được một số hội viên tích cực trong đó có có cả những thầy giáo như Nguyễn Trí Tư, Hoàng Đức Thi và học sinh như Trần Tích Thiện, Nguyễn Công Hoạch, Lê Bá Cảnh,  Nguyễn Huy Lung, Nguyễn Đình Chuyên .v.v…
       Từng bước lao vào hoạt động anh dần dần phân tích những hành động, quan điểm của các nhà cách mạng tiền bối. Anh đã tìm gặp và chất vấn cụ Phan Bội Châu về bài luận : “Pháp Việt đề huề " của cụ. Dẫu rất kính trọng cụ Phan, nhưng anh vẫn khẳng định “Pháp Việt đề huề” là mâu thuẩn  với tư tưởng chống Pháp của Cụ Phan Bội Châu. Từ những bài học đầu tiên, Nguyễn Sĩ Sách càng trở nên cứng rắn và dứt khoát trong thái độ của mình. Anh quyết tâm đấu tranh đòi một sự bình đẳng, công bằng; phản đối những điều bất công, những hành động ngang ngược, thô bạo, bỉ ổi của quan chức và binh lính người Pháp đối với người Việt nam. Nguyễn Sĩ Sách đã kích sâu cay chiêu bài “bảo hộ”, chính sách “ khai hoá văn minh” của Thực dân Pháp và thái độ đê hèn của bọn vua quan phong kiến tay sai. Anh vận động thân sinh đốt đạo sắc “Hàn lâm đại chiếu” của chính vua Khải Định ban cho để tỏ nổi bất bình đối với tên vua “đớn hèn, bất lực và ngu dốt”. Những thái độ phản kháng đầu tiên trên đây đã thể hiện rõ một lập trường dứt khoát bất hợp tác với chế độ thuộc địa phong kiến đương thời của Nguyễn Sĩ Sách.
                  Cao hơn nữa đó là thái độ chống trả những sự đe doạ, quát nạt của bọn đại diện cho bộ máy thống trị thực dân từ Hiệu trưởng nhà trường,  Đốc học, Nha học chính Trung kỳ đến Công sứ Trung kỳ… Khi biết được những hoạt động yêu nước của Nguyễn Sĩ Sách, Hiệu trưởng Trường tiểu học Pháp-Việt thị xã Hà Tĩnh Tôn Thất Cổn đã tìm cách đưa anh vào “khuôn phép” như những giáo viên khác; hăm doạ anh phải theo sự sai khiến của y. Anh cự tuyệt mọi sự ràng buộc vô lý đó. Tên Đốc học và Công sứ Hà Tĩnh đã nhiều lần gặp anh, khuyên anh là thầy giáo còn non trẻ, hãy dẹp bầu nhiệt huyết ấy lại và nên đi theo hướng chăm lo trau dồi nghề nghiệp. Chúng ve vuốt anh về những tiền đồ phía trước đang rộng mở, chờ đón anh. Anh từ chối tất cả và tiếp tục hành động theo suy nghĩ của mình. Giám đốc Nha học chính Trung kỳ Đề-lê-xi phải gọi anh vào Huế và lên mặt kẻ cả:
       - Anh là đứa con được nước mẹ đại Pháp đào tạo, tại sao anh dám vô lễ cãi lại các bậc quan trên và có những hành động phản bội ?
       Nguyễn Sĩ Sách thẳng thừng bác bỏ những buộc tội vô lý của Đề-lê-xi:
-         Tôi làm việc nghĩa. Tôi chống lại những những người làm việc thiếu đạo đức. Sao các ông lại bảo tôi phản bội ?
       Tức giận, Đề-lê-xi định giở thói hành hung, Nguyễn Sĩ Sách vớ chiếc ghế đang ngồi giơ lên chống đỡ rồi rời khỏi phòng làm việc của hắn.
       Thuyết phục, đe doạ không được; Nha học chính Trung kỳ đã buộc phải điều Nguyễn Sĩ Sách chuyển vào làm trợ giáo tại Trường tiểu học Pháp-Việt Phú Vang gần Kinh đô Huế. Không chịu nổi trước những bất công trái ngược và cam chịu trói mình dưới sự khống chế của bọn thực dân đế quốc; chỉ một thời gian  Nguyễn Sĩ Sách đã từ bỏ nghề dạy học về quê tham gia hoạt động cách mạng. Bị bọn mật tham theo dõi, anh phải xin thi vào ngành đường sắt rồi làm thư ký xe lửa Đà nẵng. Căm phẩn thái độ hống hách của viên kiểm soát xe lửa người Pháp, anh lại bỏ việc về Vinh tham gia mở hiệu “ Tam kỳ thư quán” phát hành sách báo tiến bộ và tìm cách liên lạc với ban lãnh đạo Hội Hưng Nam để tham gia hoạt động cách mạng. Từ đây anh mới có cơ hội để xuất dương đi dự huấn luyện ở Quảng Châu và trở thành Bí thư Kỳ bộ thanh niên cách mạng đồng chí Hội Trung kỳ vào cuối năm 1927. Sau khi được đảm nhận trọng trách của đoàn thể giao cho, Nguyễn Sĩ Sách nhanh chóng trở thành đầu mối của đoàn thể. Anh liên lạc tiếp xúc với các tổ chức thanh niên cách mạng xúc tiến việc thảo luận để tiến tới việc hợp nhất thành lập Tổng hội trong nước. Đến tháng 7 năm 1929 Anh bị sa vào tay giặc, kẻ thù đã tra tấn anh một cách dã man nhưng anh vẫn giữ vững được khí tiết của một người cộng sản chân chính. Trong nhà tù đế quốc Nguyễn Sĩ Sách tiếp tục tổ chức anh chị em tù nhân đấu tranh, đòi yêu sách đảm bảo quyền lợi chính đáng cho tù nhân. Trước hành động phản kháng dữ dội của anh đối với tên chúa ngục, bọn tay sai đã sát hại anh khi anh chưa đầy 23 tuổi.
           Cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Sĩ Sách vẫn còn quá ngắn ngủi, song chỉ với 5 năm bước vào cuộc tranh đấu cho mục tiêu lý tưởng cách mạng, Nguyên Sĩ Sách đã để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về ý chí quyết tâm, tinh thần quả cảm trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Từ một thầy giáo trẻ với những kiến thức, vốn sống ban đầu còn ít ỏi, bước vào hoạt động cách mạng anh đã sớm trưởng thành, tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên nhiệt huyết cách mạng. Tuy nhiên  tìm hiểu quá trình hoạt động, trưởng thành và sự chuyển biến căn bản trong tư tưởng của Nguyễn Sĩ Sách ta không thể không nhấn mạnh mốc lịch sử quan trọng về những ngày anh làm trợ giáo tại trường tiểu học Pháp-Việt thị xã Hà Tĩnh. Bởi chính nơi đây đã giúp Nguyễn Sĩ Sách nhận thức đúng  về bản chất của nhà trường dưới sự thống trị của người Pháp, được tận mắt chứng kiến những bất công, tàn ngược dưới chế độ thống trị của thực dân, được tiếp cận những tổ chức, cá nhân có tinh thần yêu nước chân chính… Tất cả đó như những chất xúc tác hữu hiệu cuốn hút, thúc dục anh từ bỏ con đường dạy học để  hiến thân cho một sự nghiệp cao cả. Trường Tiểu học Pháp-Việt đã trở thành nơi quyết định, khẳng định quyết tâm đi theo con đường cách mạng của Nguyễn Sĩ Sách; đồng thời đánh dấu bước chuyển quan trọng về tư tưởng chính trị của Nguyễn Sĩ Sách: Từ một giáo chức trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng, một đầu mối tập hợp lực lượng của các tầng lớp thanh niên trí thức, học sinh yêu nước tiến bộ lúc bấy giờ tại khu vực miền Trung nước ta   ./.
 -------------------------------
(1) Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb ST, H, 1975, trang 62


                                                            7- 2009

Nguyễn Huy Oánh một nhà giáo đa tài

NGUYỄN HUY OÁNH MỘT NHÀ GIÁO ĐA TÀI

     Mỗi người đều có nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhưng trở lại làm rạng danh cho xứ sở quê hương không phải mấy ai làm được. Nguyễn Huy Oánh nằm trong số hiếm hoi ấy.
      Nguyễn Huy Oánh sinh ngày 17-9-1913 (năm Quý Tỵ, hiệu Vĩnh Thụy thứ 9 tại làng Tràng Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn; nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Làng Trường Lưu quê ông được xem là một vùng “địa linh, nhân kiệt”, một trong những cái nôi của “Văn phái Hồng Sơn”. Dòng họ Nguyễn Huy của ông xưa nay vẫn giữ được sự lưu truyền rạng danh cho con cháu. Cuộc đời và sự nghiệp của ông mãi mãi là tấm gương và ngọn đèn toả sáng cho các thế hệ mai sau, bởi chính ông là một nhà giáo đa tài.
      19 tuổi đầu Nguyễn Huy Oánh đã đỗ đầu kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An. 35 tuổi đỗ kỳ thi Hội rồi đỗ đầu kỳ thi Đình: tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (Đình nguyên Thám Hoa). Ông được bổ làm Hàn lâm viện chí, từng được thăng Đông các đại học sĩ, làm giám khảo kỳ thi Hội, sau đó được điều về kinh làm nội giảng kiêm tư nghiệp Quốc Tử giám... .
      Nguyễn Huy Oánh trước hết là một Nhà giáo tâm huyết, sáng tạo, dày đức hy sinh và thành đạt. Ông là bậc hiền triết thông tuệ, vì thế khi  lập ra Thạc Đình học hiệu thì lập tức trong nam ngoài Bắc, kể cả ở đất Kinh kỳ, các sĩ tử kéo nhau về trường ông để học. Ông đã từng dạy cho chúa Trịnh Sâm và vua Lê Dục Tông thủa thiếu thời. Học trò của ông ngoài những người đã thành vua, thành chúa, đã có 30 người đỗ tiến sĩ, hàng trăm người đỗ tú tài cử nhân. Nhiều người đã để lại tiếng thơm trong sử sách nước nhà. Để phục vụ việc dạy học ông còn lập ra Phúc Giang thư viện với hàng ngàn pho sách có giá trị. Ba mươi lăm năm sau ngày ông mất, triều đình nhà Nguyễn vẫn sắc phong cho ông là “Phúc Giang thư viện uyên bác chi thần”(Vị thần uyên bác của thư viện Phúc Giang). Có thể nói thư viện thờ một vị thần học vấn là một việc làm hiếm có trong lịch sử Việt Nam. Để có được sách Nguyễn Huy Oánh còn chăm lo làm cơ sở in ấn mà ngày nay còn lưu giữ hơn 200 bản khắc gỗ của ông. Nguyễn Huy Oánh cũng là người xây dựng sớm chế độ học điền. Ông đã bỏ tiền ra tậu gần 20 mẫu ruộng loại tốt để khuyến khích con em trò giỏi theo đòi khoa cử, học hành đỗ đạt. Bởi thế học trò của ông đã kính trọng và quý ông như phu tử; triều đình xem ông là bậc “Lấy văn trồng người mở kế trăm năm”. Với những nổ lực của Nguyễn Huy Oánh, Tràng Lưu quê hương ông đã trở thành một làng khoa bảng, làng quan và là một trung tâm học vấn lúc bấy giờ.
        Biết về nhà giáo Nguyễn Huy Oánh chúng ta không thể không nói đến ông còn là một Nhà văn hoá, Nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực. Ông am hiểu sâu sắc cả Nho, thơ, văn, y, sử, địa...Trong kho sách đồ sộ của ông để lại cho hậu thế đã có hơn 40 trước tác có giá trị, tiêu biểu trên các lĩnh vực. Giáo dục có: Sơ học chỉ nam; giáo dục giới tính có: Huấn nữ tử ca; Văn hoá du lịch đối ngoại có: Bắc di tập lãm; Thơ có: Thạc Đình di cảo; Lịch sử có: Quốc sử toản yếu; Y học có: Dược tính ca quát... Nguyễn Huy Oánh cũng là người khởi xướng từ rất sớm ý tưởng và thực hành xây dựng mô hình Làng văn hoá. Thông thường người ta về hưu thì tính chuyện nghỉ ngơi, thư giản; ngược lại ông xin về hưu để chăm lo xây dựng quê hương bản quán. Ông đã bỏ nhiều công sức và xây dựng thành công ngôi làng của mình ở Trường Lưu với tám cảnh đẹp. Trong làng của ông có có chợ Quan, núi Phượng, chùa Hân, kho Nghĩa, miếu cổ, hồ sen, trang hoa, giếng Thục. Với Trường Lưu bát cảnh, làng của ông trở thành làng văn hoá vào loại bậc nhất xứ Nghệ cuối thế kỷ XVIII.
     Không chỉ là Nhà giáo, Nhà văn hoá, Nguyễn Huy Oánh còn là một Nhà ngoại giáo có tài ứng đối. Với uy tín và tài năng của mình, ông đã được triều đình ban hàm Tam phẩm đón tiếp sứ Thanh năm 1761 và chỉ sau mấy năm ông đã được cử sang làm Chánh sứ ở nhà Thanh (Trung Hoa). Chặng đường đi sứ Thanh còn được ông để lại qua nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Hoàng hoa sứ trình đồ; Phụng sứ yên kinh Tổng ca. Với hơn 120 bài thơ, trong đó có 470 câu lục bát phần đầu tập Tổng ca là nhật ký hành trình đi sứ của ông. Nó không chỉ là sự ghi lại cảm nhận những địa danh vừa xa xôi vừa đẹp đẽ của những vùng đất khách tác giả vừa đặt chân qua, mà ông còn có ý thức rõ ràng muốn ghi lại để tặng cho các bạn đồng niên thêm hiểu biết về Trung Quốc.
      Nói đến Nguyễn Huy Oánh, hậu thế vẫn không quên ông đã từng cùng các tướng lĩnh cầm quân dẹp phá Bàu Giang (căn cứ của Nguyễn Hữu Cầu); tham gia đánh dẹp nhiều vùng nổi loạn chống triều đình. Ông là một bậc hiền tài trung quân, văn võ song toàn. Theo ông một nhà Nho chân chính, trước hết phải có tấm lòng trung thành với Vua, với nước. Vua cần người làm tướng, nhà Nho phải biết làm tướng. Vì vậy nhà Nho vừa phải mài dũa văn chương, vừa phải luyện tập võ nghệ, nhưng không vì mưu đồ phú quý mà để:
              “Đeo đuổi một nổi niềm ái quốc, trung quân.
                     Đâu dám mưu cầu điền địa, cửa nhà”
       Dẫu chưa có điều kiện để tìm hiểu nhiều những kiến thức, tư duy về y học , lịch sử, địa lý, kinh tế... của ông, nhưng những điều trên đây cho thấy Nguyễn Huy Oánh là một Nhà nho, Nhà Giáo đa tài. Cái quý ngàn lần của ông là để lại cho hậu thế di sản vô giá về một quan niệm sống, một phong cách nhà giáo mẫu mực hết mình vì sự nghiệp. Ngẫm về ông, nhìn vào tấm gương ông; mỗi nhà giáo hôm nay chắc không nỡ nào không góp thêm chút sinh lực cho “Cuộc vận động Hai không” với 4 nội dung của Bộ Giáo dục- Đào tạo tiến về bến thành công./.

                                                                                     Trần Quang Trung
                                                                                             2003