Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

Vì sao Phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng kéo dài...

        VÌ SAO PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG CHỐNG PHÁP CỦA PHAN ĐÌNH PHÙNG CÓ THỂ KÉO DÀI HƠN MỘT 
                                            THẬP KỶ

                        ( Hội thảo kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng 4-6-2007) tại Hà Tĩnh

       Phong trào Cần Vương chống Pháp được khởi xướng từ sau vụ tấn công thất bại của quân kháng chiến vào căn cứ Pháp tại kinh thành Huế ngày 5-7-1885. Vua Hàm Nghi tự thấy: “ Trẫm đức mỏng để cho thần dân lầm than là lỗi của Trẫm” nên đã phải cùng thuộc hạ di dời về Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) và chiếu Cần Vương lần thứ nhất được ban hành vào ngày 18 tháng 7 năm 1885.  Ý nguyện của Đức vua được nêu lên trong chiếu như sau: “Trẫm tuổi trẻ nối ngôi, không lúc nào không nghĩ tới tự cường, tự trị...phúc của tôn xã tức là của thần dân, cùng lo với nhau thì cùng nghĩ với nhau...nghiến răng và dựng tóc, thề giết hết giặc”, “văn thân sĩ phu các nơi, hào mục các làng và dân chúng cùng binh sĩ, tất cả đều tề tựu Cần vương”. Tinh thần Cần Vương cứu nước ấy nhanh chóng được truyền bá rộng rãi với những lời lẽ thống thiết và kiên quyết trong dân chúng: “mong các vị lượng xét, người nào củng một lòng, xin nội trong tháng nay hạ cố tới...cùng bàn bạc cử sự, hoặc vị nào không chịu cùng làm việc với làng chúng tôi xin cũng tuân theo lời vua dự mở một đạo quân nghĩa riêng dẫn đến hành tại bảo vệ xa giá Vua cũng được. Còn dân trong xứ ai vui lòng ứng mộ thì cầm lây giấy chứng nhận thực của Lý trưởng thôn mình đem đến nơi đóng quân ở làng tôi lĩnh thưởng theo từng mức ( nếu Lý trưởng nào không chịu nhận thực tức là ngăn cản lòng trung nghĩa, việc phát giác ra quyết không dung thứ” (1). Đó là lời lẽ của Hàn lâm viện điện tích phán báo của Phan Cát Tưu, hiệu triệu Cần Vương chống Pháp. Tuy vậy Phong trào Cần Vương thực sự được ứng mộ phải sau khi Vua Hàm Nghi xuống chiếu lần 2 tại Sơn phòng, Phú Gia, Hương Khê, Hà Tĩnh vào ngày 20 tháng 9 năm 1885. Bởi tại đây các văn thân, sĩ phu yêu nước như Phan Đình Phùng, Nguỵ Khắc Kiều, Hoàng Xuân Phong, Phan Trọng Mưu, Lê Ninh... đã đến bái yết và nhậm chức do Vua Hàm Nghi ban phong. Trong số đó Phan Đình Phùng là một con người đã vì khí khái yêu nước  mà chịu tội triều đình về quê ngày trước. Ông được phong làm Tán lý quân vụ đại thần, thống lĩnh các nghĩa quân Cần Vương. Được giao trọng trách lớn, Phan Đình Phùng như muốn lập công chuộc tội rằng: “ Để cho thành tan, nước mất, thánh thượng mông trần (nhuốm cát bụi) là tội của lũ hạ thần. Xin thánh thượng yên lòng, dẫu chết cũng không từ, miễn sớm để thánh thượng hồi cung”(2). Một  phong trào sau đó ngùn ngụt bốc cao do thủ lĩnh của các địa phương đã chia nhau lập căn cứ, chiêu tập lực lượng, gương cao ngọn cờ Cần Vương cứu nước. Khắp vùng đất Hà Tĩnh quê hương của lãnh tụ Phan Đình phùng lúc bấy giờ, nhiều trận tập kích quân Pháp đã diễn ra làm cho ke thù lo sợ. Quân lính của Thực dân Pháp đã dùng rất nhiều thủ đoạn, kế sách để  tìm cách tiêu diệt lực lượng của nghĩa quân. Chúng lập đồn binh, điếm canh, ngày đêm lùng sục gắt gao để phát hiện lực lượng ủng hộ nghĩa quân; kể cả việc bắt dân “hàng rào phân li” tách dân chúng với lực lượng kháng chiến. Thế nhưng cuộc chiến đấu của nghĩa quân Cần Vương Phán Đình Phùng vẫn tồn tại với khí thế hùng mạnh và kéo dài hơn chục năm trời từ 1885 đến cuối năm 1896 mới chấm dứt.
     Cuộc chiến đấu không cân sức giữa lực lượng Cần vương mà lãnh tụ tối cao Là Đình nguyên tiến sĩ Phan Đình Phùng lãnh đạo với một đội quân thực dân chính quy, hiện đại, rốt cuộc tất yếu sẽ không thể chiến thắng  vì điều kiện lịch sử quy định. Thế nhưng trong cuộc chiến chống Thực dân Pháp suốt 27 năm, từ khi chúng nổ súng xâm lược nước ta 1858, cho đến lúc này chưa có một cuộc kháng chiến nào có thể kéo dài được như vậy. Chính đặc điểm này, cho phép có thể hiểu thêm bản chất của cuộc kháng chiến, nhưng mặt khác đòi hỏi chúng ta  phải đi tìm lời giải vì sao một phong trào bùng nổ trong điều kiện kẻ thù còn mạnh, sức lực, phương tiện dồi dào vẫn có thể duy trì được trên chục năm ròng ?.
     Đi tìm câu trả lời, dĩ nhiên chúng ta không nghĩ tới những nguyên nhân khách quan có tính chất cốt lõi truyền thống, đó là cuộc kháng chiến của nghĩa quân Phan Đình Phùng bắt nguồn từ sức mạnh chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền đất nước chống lại thế lực ngoại xâm; đây là sự tiếp nối của truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm mà ông cha chúng ta đã tiến hành qua hàng ngàn năm lịch sử chống phong kiến phương Bắc; là sự vùng dậy của dân chúng muốn thoát khỏi gông cùm nô lệ; cần vương và cứu nước hoà quyện với nhau..v.v... Thế nhưng về phía chủ quan của phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng không phải không có những nguyên nhân đặc trưng, thể hiện một năng lực sáng tạo, một sự huy động và phát huy nội lực rất lớn của nghĩa quân nói chung và lãnh tụ phong trào nói riêng.
        Trước hết Phong trào Cần vương Phan Đình Phùng được đẩy lên từ ý chí đồng thuận của quảng đại nhân dân  mà nòng cốt là các lãnh tụ của phong trào quần chúng khắp các địa bàn dân cư. Hẳn là dân chúng chưa đủ điều kiện để nắm bắt thông tin đầy đủ về một sự đầu hàng nhục nhã của kẻ đứng đầu triều đình đã dâng đất cho Pháp. Nhưng khi tiếp nhận lời khẩn cầu của vua về việc hệ trọng cần kíp giúp vua cứu nước, thì nó được coi như một mệnh lệnh chính đáng đối với bầy tôi trung thành với quốc gia đại sự; thêm vào đó là những bậc sĩ phu hiểu rộng, tài cao đã trực tiếp đứng ra chiêu tập quân sĩ đứng lên giúp vua cứu nước, nên được đông đảo dân chúng tham gia tích cực. Nghĩa quân của phong trào Cần Vương trước hết là nghĩa quân từ các địa phương. Quân sĩ của phong trào bao gồm phần lớn là những người chân lấm tay bùn, lao động từ các thôn xã tự nguyện tham gia nghĩa quân để cứu nước, cứu nhà. Chính sức mạnh tự nguyện của dân chúng đã mang vào nghĩa quân đầy đủ những nhân tài vật lực, tiền của, thóc gạo, trâu bò... và tất cả những hiểu biết từ bách nghệ của đời sống. Nó làm cho nghĩa quân Cần Vương thê hiện nổi trội tính chất của một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện. Qua những tư liệu mà chúng ta có được có thể thấy rằng người dân tham gia phong trào với một ý thức rất cao, coi công việc của nghĩa quân như công việc của chính mình. Vì thế người dân đã không từ chối bất kỳ một khả năng đóng góp nào cho nghĩa quân.Ở Thạch Hà có có gia đình Phó bảng Bùi Thố cả 6 cha con trai, gái tham gia nghĩa quân.Ở làng Uy viễn, Nghi Xuân có gia đình họ Đặng cả 5 anh em ruột đều gia nhập nghĩa quân.Ở quê hương cụ Phan: “có bà mẹ dắt người con trai độc nhất của mình đến cửa đồn Đông Thái gửi cho cụ Đình”. Chỉ riêng ở Trường Lưu (Can Lộc) hàng trăm gia đình từ xóm Độ, xóm Đình, xóm Mới, xóm Mác lúc bấy giờ kẻ ít, người nhiều góp tiền, gạo, rau, quả, cà, muối... giúp nghĩa quân. Có gia đình một lúc ủng hộ 30 thúng thóc (tương đương 5 tạ) (3). Chị em phụ nữ động viên chồng gia nhập nghĩa quân như một nghĩa vụ thiêng liêng:
                                             “Tổ tiên để lại em thờ
                                    Anh ra ngoài ải cầm cờ theo Vua”
         Tham gia hoạt động cho nghĩa quân Cần Vương còn có cả vợ Cai Hợp, vận động chồng tự nguyện mang binh lính, đồn trại ở Rú Đồn, Trường Lưu (Can Lộc) gia nhập vào nghĩa quân kháng chiến...Rõ ràng là Cuộc vận động Cần Vương  chống Pháp của Phan Đình Phùng không chỉ chăm lo về lực lượng vũ trang mà còn chú trọng cả về phương diện tuyên truyền chính trị, khuyến khích binh vận, xây dựng nguồn lực tiếp tế lương thảo....
       Một nét rất nổi trội và độc đáo là Phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng đã khá thành công trong việc lựa chọn, tiến cử, bổ nhiệm người tài cầm quân chỉ huy chiến đấu. Sử dụng người tài là một nhân tố quyết định để phát huy hiệu quả của nghĩa quân trong bất kỳ tình huống nào. Sau khi Phan Đình Phùng được đức Vua tấn phong thống lĩnh các đạo nghĩa binh, thì lập tức các bậc anh tài tìm về tụ nghĩa trong đó nổi lên như Cao Thắng, Lê Ninh, Phan Cát Tưu, Nguyễn Cao Đôn, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch, Đề Châu....Chẳng bao lâu trong số đó, Cao Thắng đã được lãnh tụ Phan Đình Phùng giao toàn quyền chỉ huy lực lượng. Sau 2 năm tụ nghĩa, lực lượng nghĩa quân đã phát triển khá mạnh, Phan Đình Phùng lên đường ra Bắc tìm kiếm, phối hợp lực lượng chống Pháp. Cao Thắng trong cương vị toàn quyền tổng chỉ huy lực lượng, ông là thủ lĩnh của đội quân gồm rất nhiều quan thứ, đã chủ động tấn công địch. Chiến thắng trong các trận chiến với địch, ông đã cùng với Lê Phất (Trung Lễ), Lê Quyên (Yên Hồ), Đặng Duy Truy (Uy Viễn) có sáng kiến nghiên cứu vũ khí địch để chế tạo thành công súng trường theo kiểu 1874 của Pháp mà hiệu quả của nó không thua kém là bao. Đây thực sự là tài năng của nhà quân sự lỗi lạc đã giúp cho nghĩa quân kháng chiến có thêm thế mạnh mới. Không chỉ có vũ khí mới, Cao Thắng còn xây dựng một đội quân có chất lượng chiến đấu cao, có kỷ luật nghiêm để làm nòng cốt. Rõ ràng cụ Phan đã không nhầm khi giao toàn quyền chỉ huy cho Cao Thắng. Cao Thắng một trụ cột thực sự của nghĩa quân, một người “quả cảm, thiện chiến”. Ông chỉ huy đánh đâu thắng đó làm cho kẻ thù thực sự khiếp sợ. “Đánh nhau với Pháp, ông đã chém được đầu những quan Một, quan Hai của Pháp. Quân Pháp đã khuyên nhau hễ gặp Thắng là phải tránh đi”. Có được người đứng đầu tài giỏi là điều vô cùng quan trọng, bởi đây là điều kiện tiên quyết cho việc xây dựng đội ngũ thực tài dưới quyền. Bên cạnh Cao Thắng đã có nhiều chỉ huy tài giỏi khác như Phan Cát Tưu, Lê Ninh (Đức THọ), Nguyễn Chanh (Can Lộc), Nguyễn Cao Đôn (Thạch Hà), Hoàng Bá Xuyên (Cẩm Xuyên), Trần Hữu Châu (Hương Khê).....là những vị chỉ huy đã góp phần quyết định, tạo nên nhiều chiến thắng vang dội của nghĩa quân.
       Để phong trào được duy trì và phát triển lâu dài, có một nguyên nhân khá quan trọng là nghĩa quân đã từ rất sơm  biết khai thác tối đa yếu tố “địa lợi” để bí mật bảo toàn lực lượng. Trong chiến tranh “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà” là ba yếu tố gắn chặt với nhau để chiến thắng. Nghĩa quân Phan Đình Phùng mặc dù đã được nhân dân khắp mọi nơi nhiệt tình ủng hộ, song Bộ chỉ huy nghĩa quân vẫn không quên khai thác yếu tố địa hình núi non hiểm yếu của Hà Tĩnh để tránh sự truy lùng của địch. Nghĩa quân đã thường xuyên di chuyển, xây dựng cắn cứ mới. Ngay từ khi còn là nghĩa quân  Đại đồn Đông Thái, hoạt động một thời gian đã chuyển về núi Mồng Gà (Hương Sơn), rồi Cồn Chùa (Sơn Giang, Hương Sơn), sau đó chuyển sang xây dựng căn cứ tại Thượng Bồng - Hạ Bồng (Đức Thọ) và tiếp tục mở rộng căn cứ ra phần lớn khu vực này thuộc huyện mới Vũ Quang (Hà Tĩnh). Có căn cứ bí mật, nghĩa quân luôn phát huy lợi thế sử dụng chiến thuật đánh đồn diệt viện, bí mật, bất ngờ, tập kích tiêu diệt đồn binh của địch, là cách đánh phù hợp với lối “lấy ít địch nhiêu, lấy yếu đánh mạnh” trong cuộc kháng chiến không ngang sức buổi đầu. Nhờ hoạt động có hiệu quả như vậy nên nghĩa quân càng đánh càng mạnh, càng được bổ sung nhân tài, vật lực thường xuyên. Chẳng bao lâu lực lượng nghĩa quân đã lên tới hàng ngàn người. Nhiều người dân đã hiến thóc gạo, lợn, gà, muối, rèn đúc giáo mác... cho nghĩa quân kháng chiến. Đây cũng là yếu tố quan trọng để cho cuộc dấy nghĩa Cần Vương được tồn tại lâu dài mà kẻ địch không dễ gì chống cự được.
          Một nguyên nhân khác phải kể tới là việc nghĩa quân sớm chăm lo xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng có bước chuyển mới sau khi ông ra Bắc trở về vào tháng 9 năm 1889. Từ đây toàn bộ các lực lượng kháng chiến trong 4 tỉnh từ Thanh Hoá đến Quảng Bình được chia thành 15 quân thứ, đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của Phan Đình Phùng- Cao Thắng. Nắm giữ và chỉ huy một đạo quân khá lớn, uy tín và ảnh hưởng của nghĩa quân đang lan rộng khắp nơi. Một tình huống chắc chắn xẩy ra đó là kẻ thù sớm muộn sẽ tập trung lực lượng để tiêu diệt nghĩa quân kháng chiến. Bởi vậy Phan Đình Phùng đã cho xây dựng khu căn cứ, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Từ Căn cứ Thượng Bồng-Hạ Bồng nghĩa quân đã phát triển sang tả ngạn sông Ngàn Sâu, xây dựng căn cứ Hói Trùng-Hói Trí và đi sâu vào thượng nguồn sông Ngàn Trươi xây dựng Đại bản doanh Vũ Quang vùng có địa thế rất hiểm trở. Tại đây nghĩa quân đã cho xây dựng hệ thống đồn trại, bãi tập, xưởng rèn đúc vũ khí, kho tàng liên hoàn khá hoàn chỉnh. Trong các căn cứ nghĩa quân có những khu lò rèn có tới 30 gian lán trại, thường xuyên có từ 200 đến 300 thợ, thay nhau làm việc suốt ngày đêm để rèn đúc vũ khí. Nhiều kho dự trử lương thảo, nghĩa quân cho đào sâu xuống đất, lấy củi đốt thật cháy như sành để vũ khí, lương thảo không bị ẩm ướt, mối mọt. Tại khu trung tâm có một đội quân chủ lực gồm 300 quân tinh nhuệ, ăn mặc đồng phục, trang bị gươm giáo, súng hoả mai, súng tây, luyện tập kỷ càng, kỷ luật nghiêm minh. Bên cạnh cụ Phan luôn có 20 vệ sĩ túc trực do tướng Nguyễn Mục chỉ huy....Như vậy có thể thấy khu hậu cứ kháng chiến được nghĩa quân xây dựng khá vững chắc, có thể đảm bảo cho mọi hoạt động chỉ huy, chiến đấu của nghĩa quân. Mà điều đáng nói là kẻ địch hoàn toàn không hay biết, mãi về sau một đại uý Pháp thừa nhận: “té ra là từ trước tới nay, chúng ta không hay Phan Đình Phùng biết sắp đặt, tập rèn quân lính theo như kỷ luật nhà binh Pháp châu Âu, cho quân lính mặc y phục giống hệt một thứ lính tập bản xứ của ta, lại mang súng kiểu 1874 do ông bí mật chế tạo lấy rất nhiều, nhưng chế tạo ở chổ nào thì không ai biết”(4).   Nếu xét theo quan điểm hiện đại: “Hậu phương là nhân tố thương xuyên quyết định thắng lợi trên chiến trường” thì rõ ràng nghĩa quân Phan Đình Phùng đã chăm lo xây dựng một vùng hậu cứ có ý nghĩa tương tự. Một yếu tố đảm bảo cho cuộc kháng chiến có thể còn dài lâu hơn, nếu chưa có những rủi ro đáng tiếc- Lãnh tụ tối cao của nghĩa quân hy sinh vào cuối năm 1895.
       Tóm lại phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng khép lại sau hơn 10 năm hoạt động sôi nổi, rộng khắp và có tiếng vang lớn trong cả nước. Có thể coi đây như một cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài nhất, quyết liệt nhất kể từ khi quân Pháp mở cuộc tấn công vào nước ta. Với hàng trăm tướng lĩnh tài ba, hàng ngàn binh sĩ trung thành với ngọn cờ Cần Vương, dân tộc rốt cuộc phải chịu thất bại. Song những gì phong trào để lại cho hậu thế quả thực có giá trị trường tồn. Đi tìm nguyên nhân kéo dài cuộc kháng chiến trong điều kiện nghĩa quân duy trì và phát triển qua muôn vàn khó khăn thử thách, thấy được những cốt cách tốt đẹp của các anh hùng xả thân vì ngọn cờ Cần Vương cứu nước, những đóng góp to lớn của nghĩa quân nói chung, lãnh tụ tối cao của phong trào nói riêng, là một việc làm cần thiết nhằm khơi dậy và phát huy những giá trị to lớn ấy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng, kỷ niệm một con người tài ba, hiến trọn đời cho một lời thề hy sinh vì sự bình yên của đất nước./.


  Chú thích:
(1)  Xem Võ Kim Hậu. Văn hoá Hà Tĩnh số 105+106 năm 2007, trang 30
(2) Trường Phan Đình Phùng Hà Tĩnh...nxb CTQG, H,2005, trang 144
(3) Xem Văn hoá Hà Tĩnh số 98 tháng 9-2006, trang 3- 4
(4) Xem Thái Kim Đỉnh, Tạp chí Hồng Lĩnh số 26-2005, trang 77

                                                         Th.s Trần Quang Trung
                                                                     6- 2007

Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

Công tác Tư tưởng cua Hà Tĩnh cuối XX

MẤY VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
CỦA ĐẢNG BỘ HÀ TĨNH 5 NĂM CUỐI THẾ KỶ XX

         Công tác tư tưởng, suy cho cùng là hướng tất cả mọi người vào một mục tiêu chung, nhằm tạo ra một sự thống nhất về ý chí và hành động, để hoàn thành các chương trình, kế hoạch công tác mà chúng ta định trước. Như thế, công tác tư tưởng không phải là cái chung chung trừu tượng.
         Năm năm qua, kể từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 14, đây là thời kỳ có ý nghĩa bàn lề để bước vào thiên niên kỷ mới. Với những tác động mạnh mẽ của thế giới và trong nước, Đảng bộ chúng ta đã phấn đấu tích cực xoá dần nghèo nàn, lạc hậu; tích cực xây dựng hạ tầng cơ sở, cải biến từng bước bộ mặt tỉnh nhà để tiến lên theo quỹ đạo chung.
        Trong sự phát triển ấy, công tác tư tưởng của đảng bộ đã đóng góp một phần quan trọng. Điều đó được thể hiện qua một số vấn đề cụ thể trong lĩnh vực hoạt động của công tác Tuyên giáo như sau:
        Trước hết, công tác tư tưởng thời gian qua đã chú ý đúng đến việc tăng cường giáo dục lý luận chính trị, đường lối chính sách của Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên nâng cao một bước về trình độ nhận thức, bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận cho cán bộ, làm chổ dựa căn bản cho việc lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và các phong trào quần chúng thu được kết quả. Từ trong khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, công tác giáo dục chính trị đã có nhiều sáng tạo về hình thức tổ chức trường lớp, phong phú về chương trình. Chúng ta đã vừa khẩn trương xây dựng trường sở để đào tạo chính quy, tranh thủ gửi đào tạo ở các trường Trung ương, vừa tận dụng và phát huy cơ sở vật chất của các huyện, thị, đảng uỷ trực thuộc, các ngành....Nhờ đó sau một thời gian đã mở được 2 lớp cao cấp lý luận chính trị với hơn 200 học viên; mở 12 lớp trung học chính trị với hơn 1000 học viên, nâng tỷ lệ đảng viên có trình độ cao cấp lý luận lên 0,04% và có trình độ trung cấp lý luận chiếm 30%. Ngoài ra chúng ta còn mở được 73 lớp lý luận phổ thông cho 6.667 đảng viên mới; 146 lớp đối tượng đảng với hơn 14.000 cán bộ, đoàn viên, thanh niên ưu tú.v.v...
        Các nghị quyết Đại hội, nghị quyết Trung ương, pháp luật của Nhà nước, cùng các nghị quyết Đảng, chính quyền địa phương được triển khai nghiêm túc. Việc tổ chức học tập nghị quyết đường lối chính sách đã được hệ thống báo cáo viên, cấp uỷ triển khai từ tỉnh đến cơ sở theo kế hoạch hướng dẫn của các cấp uỷ đảng.
         Hoạt động báo cáo viên, thông tin tuyên truyền được chỉ đạo chặt chẽ, thông tin định hướng kịp thời giúp cán bộ, đảng viên nắm được những nét cơ bản của tình hình thế giới, trong nước, những kết quả đạt được đáng phấn khởi của công cuộc đổi mới đất nước, địa phương. Để giúp đội ngũ báo cáo viên thường xuyên hoạt động đúng định hướng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đã duy trì đều đặn chế độ họp báo cáo viên cấp tỉnh mỗi tháng một lần, ra Bản tin Thông tin tư tưởng mỗi tháng một số, phát hành bản tin tham khảo thường xuyên.v.v...Ngoài ra Ban còn hướng dẫn kịp thời việc tổ chức các ngày lễ lớn, các dịp sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng bộ. Đây là những mặt mạnh và là sự thành công của" binh chủng" tư tưởng của tỉnh ta trong thời gian qua.
        Để làm tốt hơn công tác chính trị tư tưởng trong đảng bộ, hàng năm tỉnh còn tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ và tranh thủ sự giúp đỡ của Ban tư tưởng Văn hoá, để bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ báo cáo viên của tỉnh.
        Đi vào thời kỳ CNH, HĐH, hoạt động của lĩnh vực khoa giáo có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả của sự nghiệp đổi mới. Thực hiện nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra nghị quyết số 05, 06 về phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ của tỉnh đến năm 2000, nhằm dẩy tới một bước phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chuẩn bị lực lượng lao động cho thế kỷ XXI. Nghị quyết đi vào cuộc sống đã tạo ra những bước chuyển lớn về xây dựng cơ sở vật chất, giáo dục đào tạo; từng bước phổ cập giáo dục THCS, đa dạng hoá loại hình trường lớp. Trong đó phải kể tới việc nâng cao tỷ lệ số xã  có trường học cao tầng từ 30% (năm 1996) lên hơn 70% (năm 2000) . Các tiến bộ kỷ thuật được ứng dụng có hiệu quả như công nghệ luyện quặng Ti tan, công nghệ chế biến bia, sản xuất tấm lợp... Các giống chăn nuôi như bò lai sin, lợn nạc tăng trọng, gà, vịt năng suất cao, các giống  lúa, lạc cao sản.v.v.. thực sự góp phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế tỉnh nhà trong mấy năm qua, đưa thu nhập GDP tăng từ 120 USD (năm 1996) lên 220 USD (năm 2000) .
       Một nét đáng chú ý nữa của công tác chính trị tư tưởng đó là giáo dục truyền thống. Năm năm qua tỉnh đã hoàn thành 2 tập sách Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, xuất bản tập I Lịch sử Hà Tĩnh cùng nhiều sách tài liệu quý khác. Hầu hết các huyện, thị, ngành đã khẩn trương biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử địa phương và đơn vị mình. Tỉnh cũng đã tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu truyền thống có tác dụng giáo dục tốt. Nhân những ngày lịch sử trọng đại, các cấp uỷ Đảng đã tổ chức kỷ niệm trọng thể theo hướng dẫn của Trung ương và Tỉnh uỷ.
         Đương nhiên công tác chính trị tư tưởng của Đảng không thể là một loại hình hoạt động riêng lẻ, trái lại mọi thành công của lĩnh vực này đều gắn chặt với các hoạt động kinh tế-xã hội. Bởi vậy trong những năm qua, các cấp uỷ Đảng đã biết chỉ đạo phối hợp chặt chẽ công tác chính trị tư tưởng với việc giải quyết tốt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng cải thiện dời sống nhân dân, đồng thời giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Chính nhờ giải quyết tốt những vấn đề nổi cộm trong Đảng như xử lý nghiêm các đảng viên, cán bộ vi phạm kỷ luật đảng, cùng với những vụ việc mà nhân dân quan tâm như giải thể công ty GETRADIMEX, giải phóng đường IA.v.v... Tất cả đã tạo nên sự ổn định tình hình, nội bộ Đảng ngày càng thống nhất hơn. Đó là bài học vô cùng quý giá làm tăng thêm giá trị của hoạt động lĩnh vực chính trị tư tưởng trong Đảng bộ, góp phần thúc đẩy tỉnh nhà phát triển.
          Mặc dù công tác chính trị tư tưởng của Đảng bộ không phải không còn những vấn đề cần được tiếp tục giải quyết như: tư tưởng bảo thủ, ỷ lại, chưa mạnh dạn đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỷ thuật, giống mới, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch dịch vụ... Nhưng từ những kết quả đạt được bước đầu, chúng ta có thể nhận rõ mấy vấn đề căn bản của sự thành công trong công tác chính trị tư tưởng thời gian qua như sau:
        1. Công tác chính tri tư tưởng đã thực sự trở thành một lĩnh vực quan trọng hàng đầu của các cấp uỷ Đảng. Nơi nào đồng chí Bí thư, Thường trực cấp uỷ quan tâm chỉ đạo tốt, nơi đó tạo được sự thống nhất cao và huy động được nguồn lực vào phong trào cách mạng. Thực tế cho thấy, nếu vừa qua chúng ta không hướng toàn Đảng bộ vào khai thác thế mạnh nông nghiệp, không dốc sức vào thuỷ lợi, thâm canh, giống mới, tăng mùa vụ, thay đổi cơ cấu, thì chúng ta không thể giải quyết tốt được vấn đề lương thực, để đưa sản lượng từ 24 vạn tấn (năm 1992) lên 45 vạn tấn (năm 2000).
       2. Để làm tốt công tác chính trị tư tưởng, không thể không quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu cho các cấp uỷ Đảng đặc biệt là đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tư tưởng. Đến nay toàn tỉnh có 1550 báo cáo viên  là lực lượng xung kích của các cấp uỷ Đảng trong lĩnh vực công tác tư tưởng. Cùng với đội ngũ là sự đầu tư thoả đáng về điều kiện vật chất cần thiết. Chính vì thấy được vị trí quan trọng của nó mà hàng năm tỉnh đã đầu tư thích đáng cho việc mua sắm thiết bị, phương tiện phát thanh truyền hình, báo đảng, Thông tin tư tưởng cùng các báo chí, bản tin khác. Nhờ sự quan tâm đúng mức của các cấp uỷ Đảng mà đội ngũ những người làm công tác tư tưởng có những điều kiện cần thiết để hoạt động có hiệu quả, tạo được niềm tin cho cán bộ nhân dân.
         3. Để công tác chính trị tư tưởng giành được kết quả hoạt động trên lĩnh vực này phải hết sức nhạy bén, linh hoạt trong phương thức hoạt động, nắm chắc diễn biến tư tưởng và dự báo tốt những vấn đề có thể xẩy ra, nếu không có những dự báo chính xác, sẽ không có những quyết sách đúng đắn để định hướng cho phong trào, sẽ không có những nổ lực lớn đi tắt đón đầu của thời đại, tạo ra những đột phá quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương. Vì vậy muốn làm tốt công tác tư tưởng càng phải thực sự dân chủ, để dân biết, dân bàn, dân làm...Đó là phương châm có tính nguyên tắc trong quá trình thực hiên Đảng cầm quyền.
        4. Hoạt động trên lĩnh vực chính trị tư tưởng nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ các binh chủng, tận dụng mọi điều kiện, cơ hội, từ diễn đàn hội nghị tập huấn, tuyên truyền qua hệ thống thông tin đại chúng, sách báo, cổ động, sinh hoạt văn hoá, thể thao... đến mọi hoạt động của các tổ chức, đoàn thể nhân dân cần có sự định hướng, lãnh đạo của Đảng làm cho các hoạt động của quần chúng có thêm ý nghĩa. Thực tế thời gian qua chúng ta đã làm như vậy nên chúng ta mới tạo được những văn hoá lành mạnh, khắc phục dần những tập tục lạc hậu để tiến đến văn minh, hiện đại.
                                                    Thạc sĩ Trần Quang Trung
                                                    Báo Hà Tĩnh 21 / 2 / 2001
                          

Công tác Tư tưởng

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

          Hiện nay, hoạt động Tuyên Giáo bao gồm cả hoạt động Tuyên huấn, khoa giáo và nghiên cứu biên soạn Lịch sử Đảng. Trong đó công tác Tuyên huấn là một trong những bộ phận chủ yếu trong công tác tư tưởng của Đảng. Mỗi lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng đều có vị trí và tính chất quan trọng riêng . Song có một điều từ trước đến nay Đảng ta vẫn quan niệm thống nhất là: công tác tư tưởng luôn luôn phải đi đầu. Vì sao vậy?
         Từ xa xưa, khi loài người còn ở thời kỳ mông muội-dã man, lịch sử tiến hoá của nhân loại phát triển tự nhiên chẳng ai quan tâm đến công tác tư tưởng. Những nhà tư tưởng vĩ đại nhất cũng chỉ hoạt động để tìm kiếm, đấu tranh cho những trường phái quan niệm khác nhau xung quanh những vấn đề cơ bản của triết học.
        Khi loài người chuyển sang thời đại văn minh, giai cấp và nhà nước xuất hiện thì con người mới chăm lo hơn việc đấu tranh để duy trì quyền lợi của mình. Đấu tranh giữa ý thức hệ khác nhau trở thành một vấn đề lớn của xã hội.
         Khái niệm công tác tư tưởng là một phạm trù lich sử, được xuất hiện khi đảng của giai cấp vô sản ra đời nhằm duy trì sự lãnh đạo của đảng với quần chúng nhân dân. Muốn cho quần chúng đi theo đảng thì trước hết công tác tư tưởng phải làm rõ được ý tưởng, mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng của đảng. Để đạt được mục tiêu ấy: đường lối, chủ trương của đảng như thế nào?  Đảng tổ chức thực hiện trên các mặt hoạt động (kể cả công tác xây dựng đảng) ra sao? Những bài học thành công, chưa thành công trong từng chặng đường lịch sử... và cuối cùng là để làm được những diều này phải xây dựng một đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng cùng với những cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử. Lịch sử cho thấy: để chuẩn bị cho cuộc cách mạng vô sản Nga, trước hết Lê Nin đã chăm lo tuyên truyền giác ngộ cán bộ nhân dân về một cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo. Để chuẩn bị cho cuộc cách mạng vô sản Việt nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trước tiên đã tìm kiếm một lý luận cách mạng và tuyên truyền giáo dục cho đội ngũ cốt cán thông suốt ý tưởng của mình và tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng. Đây là yêu cầu hàng đầu, thường xuyên của Đảng, vì thế công tác tư tưởng phải đặt lên hàng đầu. Nếu không làm được như vậy thì sự lãnh đạo của Đảng trở nên hạn chế. Công tác tổ chức, kiểm tra, dân vận là những lĩnh vực riêng nhưng đều có quan hệ gắn bó chặt chẽ với với công tác tư tưởng và tạo ra những điều kiện cần thiết để giải quyết tốt vấn đề tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
        Sự nghiệp cách mạng những năm qua của Đảng, với những chặng đường vẻ vang, oanh liệt, đã đưa công tác tư tưởng của Đảng nhiều giai đoạn đạt tới đỉnh cao. Công tác tư tưởng đã làm cho ý chí của muôn người như một, góp phần đưa cách mạng giành những thắng lợi vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Công tác tư tưởng thực sự có vai trò to lớn tạo nên sức mạnh vật chất của cả dân tộc.
          Trong công cuộc đổi mới hôm nay, công tác tư tưởng của Đảng càng có trách nhiệm nặng nề hơn. Bởi xây dựng đất nước trong điều kiện cơ chế thị trường với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Để tất cả đi đúng định hướng XHCN là một cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng cực kỳ khó khăn, gian khổ và ác liệt. Âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch đang nhằm vào những kẻ  muốn xa rời sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả đổi mới cùng với những tệ nạn tham nhũng, quan liêu của cán bộ, sự xuất hiện các băng nhóm  tội phạm và xu hướng chạy theo lợi ích vật chất, thực dụng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, đang làm cho công tác tư tưởng của Đảng ngày một nặng nề. Trong hoạt động thực tiễn, gần như không có một lĩnh vực nào, hoạt động nào, lại không có những vấn dề tư tưởng nẩy sinh. Giải quyết tốt tư tưởng là yếu tố quyết định thành bại cho vai trò lãnh đạo của Đảng. Ban chấp hành Trung ương đã có nghị quyết về những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, là chổ dựa cơ bản để các cấp ủy Đảng có điều kiện kiểm tra lại mình và tiến lên phía trước.
         Lịch sử nhân loại đã bỏ xa thời đại dã man, đang đi nhanh vào thời đại văn minh, kinh tế tri thức với những khối lượng thông tin khổng lồ và nhạy cảm. Những đảng viên chân chính của đảng đã có những bài học thực tiễn quý giá trong lĩnh vực  hoạt động tư tưởng, đó là vốn quý để chúng ta tạo thêm động lực phát huy sức mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công.
        Kỷ niệm 72 năm ngày truyền thống ngành tư tưởng văn hoá, thiết nghĩ nêu lại những vấn đề đơn giản trên đây vẫn còn rất bổ ích.

                                                                    T.Q.T
                                                 Thông tin Tư tưởng số 7 / /2002

Một đơn vị chọn đúng hướng đi

MỘT ĐƠN VỊ CHỌN ĐÚNG HƯỚNG ĐI


           Được Sở Thuỷ sản cho tách riêng hoạt động và hạch toán độc lập từ năm 1991, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Đò Điệm lúc đầu chỉ có 130 công nhân, vốn liếng nhỏ, giá trị tài sản cố định 1,2 tỷ đồng trong đó còn nợ ngân hàng 750 triệu. Với điều kiện ấy, để duy trì mọi hoạt động của đơn vị đã rất khó khăn chưa nói đến việc mở mang sự nghiệp.
          Thế nhưng sau 5 năm vật lộn với cơ chế mới, Công ty chẳng những không bị bỏ lại phía sau mà còn tìm được hướng đi để ngày một xác lập vị trí xứng đáng của mình trong các đơn vị kinh tế Nhà nước ở Hà Tĩnh.
          Kể từ năm 1991 đến nay, Công ty liên tục hoàn thành kế hoạch. Giá trị sản phẩm của công ty ngày một tăng. Năm 1991 toàn công ty mới sản xuất được 800 USĐ thì đến cuối năm 1995 đã sản xuất được 1,7 triệu USD. Đến hết tháng 10 năm 1996, Công ty đã hoàn thành 100,4% kế hoạch- là năm Công ty về đích sớm nhất từ trước đến nay. Giờ đây với 320 công nhân trong đó 80% là nữ, Công ty đã tạo lập cho mình một cơ ngơi khang trang. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đã được xây dựng đáng kể. Vốn tài sản cố định đã lên đến gần 5 tỷ đồng bao gồm văn phòng công ty, nhà xưởng, máy móc, phương tiện quản lý, trang thiết bị sản xuất, chế biến.v.v.. Vốn lưu động từ 14 triệu đã tăng lên1,2 tỷ đồng. Lương công nhân đã đạt bình quân 400 ngàn đồng / tháng. Trong khi nhiều đơn vị kinh tế tỉnh nhà gặp khó khăn trong sản xuất, , cả nước mất mùa về khai thác thuỷ sản, thì công ty vẫn đảm bảo phát triển, đó là điều đáng quý. Nhưng  vì sao công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Đò Điệm gặt hái được kết quả như vậy? Chúng ta có thể nhận thấy ở đây trên một số vấn đề sau:
       Trước hết Công ty đã quan tâm đúng mức đến người bạn hàng của mình, lấy việc đảm bảo uy tín với “ thượng đế ” làm nguyên tắc số một của đơn vị . Các mặt hàng chủ yếu của Công ty là mực lột da, mực ống, ngoài ra còn có tôm cua, ốc hương.v.v...Bạn hàng của Công ty chủ yếu là các nước Nhật, Mỹ, Đài Loan, thỉnh thoảng còn quan hệ với Thái Lan, Pháp. Để có chữ “ tín” với bạn hàng và làm ăn lâu dài , Công ty luôn theo dõi chặt chẽ sản phẩm, thông báo kịp thời định lượng hàng của Công ty với bạn, để trán những lô hàng lạm dụng nhẫn hiệu của Công ty mà không đảm bảo chất lượng.
       Công ty còn thường xuyên chăm lo đảm bảo quyền lợi mọi mặt của người lao động. Những  công nhân trực tiếp sản xuất đem lại giá trị cao, có khi được hưởng thu nhập từ 700.000 đến 3 triệu đồng / tháng. Đối với công nhân chế biến - dễ nhiểm bệnh nghề nghiệp, Công ty luôn chú ý công tác bảo hiểm, trả vượt ngày lương bình quân giúp họ có điều kiện chăm sóc sức khoẻ. Công ty còn thực hiện bao cấp cho nhà tre các khoản như ăn ca, điện, nước, nhà ở... Công nhân làm nhà, mua xe. Công ty khuyến khích cho vay không lãi 30% ssó tiền để họ có điều kiện cải thiện cuộc sống. Ngoài việc chăm lo đời sống vật chất , công ty đã chú ý chăm lo đời sống tinh thần cho công nhân. Công ty có phòng sinh hoạt văn hoá, công nhân có thể vui hát karaokê sau ngày làm việc đến tận 22 giờ trong ngày. Ngoài ra công ty còn có đội bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông... Các đội có thể tham gia tranh giải hàng năm giữa các phân xưởng, khu gia đình với nhau, tạo nên một không khí phấn khởi, đoàn kết gắn bó.
          Một điều đáng nói đến là đảng uỷ và Ban giám đóc công ty luôn luôn phối hợp chặt chẽ, giúp giám đốc quản lý điều hành tốt nhất . Bộ máy quản lý của công ty giảm nhẹ tối đa. Toàn công ty không quá 4% gián tiếp. Giám đốc theo dõi sản xuất thông qua một hệ thống vô tuyến có thể quan sát, uốn nắn trực tiếp từng hoạt động của công nhân trong các phân xưởng.
         Công ty còn rất quan tâm đến công tác đối ngoại nhằm xác lập những mối quan hệ tốt với các cơ quan, đơn vị, địa phương tạo nên một môi trường thuận lợi cho mình yên tâm sản xuất. Hàng năm công ty còn bỏ ra hành trăm triệu đồng để góp vào quý phúc lợi chung cho xã hội, làm từ thiện nhân đạo, góp phần vào việc xây dựng cơ sở vật chất, phúc lợi, qũy tình nghĩa với các địa phương; chẳng hạn đóng góp cho quỹ Hội chữ thập đỏ, ủng hộ Cu Ba, đồng bào bị bão lụt, giúp các xã lân cận sữa chữa đường sá, nghĩa trang, xây dựng trường học, đền thờ...
       Những vấn đề nêu trên hẳn chưa phản ánh hết những điều đáng nói, song dù sao đó cũng là những nét đáng chú ý, giúp chúng ta hiểu thêm về một công ty đang vươn dần lên, trở thành một điểm nhỏ đáng tự hào của quê hương.

                                                                  Trần Quang Trung
                                                         Báo Hà Tĩnh 24 / 12 / 1996

Con đường cách mạng của Nguyễn Sỹ Sách

TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÁP-VIỆT, NƠI KHẲNG ĐỊNH QUYẾT TÂM ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN SĨ SÁCH
                                                         ---------
                                                                     
                                                                  

        Sinh ra trong một  gia đình nhà nho nghèo ở làng Tú Viên, xã Thanh Lương,  huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Sĩ Sách chịu ảnh hưởng lớn của truyền thống gia đình và quê hương cách mạng. Thân sinh của Nguyễn Sĩ Sách là một nhà nho cương trực, không bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, uy vũ của các quan lại thực dân và chính quyền phong kiến Nam triều. Hai lần đi thi Hương ông chỉ đỗ tú tài. Từ đó ông quyết tâm mở trường dạy học để có điều kiện rèn cặp con cái nên người. Nguyễn Sĩ Sách là con đầu lòng nên được cha chăm sóc, kèm cặp chu đáo. Ngay từ khi một tuổi anh đã được cha dạy học chữ hán và chữ Quốc ngữ.
      Nghệ An quê hương anh là nơi có nhiều người nổi tiếng, ham học, hay chữ với những tấm lòng nhiệt huyết cách mạng. Khi  trưởng thành anh đã không khỏi không chịu ảnh hưởng truyền thống nho học yêu nước, bất hợp tác với giặc. Những bậc thầy, bậc đàn anh của Nguyễn Sĩ sách như Phan bội Châu, Nguyễn Ái Quốc…mà tên tuổi của họ đã từng gắn bó hoà nhập với lịch sử dân tộc, luôn được Nguyễn Sĩ Sách trân trọng, ngưỡng mộ phấn đấu như những đệ tử trung thành.
      Nguyễn Sĩ Sách sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh một đất nước nô lệ; hàng ngày phải chứng kiến những cảnh bất công, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc dã nung nấu thêm trong anh lòng nhiệt huyết cách mạng. Lúc anh ở độ tuổi thanh niên cũng là lúc có thể chứng kiến được những phong trào yêu nước mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân từ phong trào công nhân, nông dân đến phong trào trí thức học sinh đang phát triển mạnh mẽ nhất là vào những năm đầu của thế kỷ XX.
       Vốn có tư chất thông minh, lại được thân sinh quan tâm chăm sóc; Nguyễn Sĩ Sách đã sớm thể hiện năng khiếu cứng rắn, nhạy cảm về chính trị của mình. Năm mười một tuổi anh đã đỗ đầu kỳ thi tuyển sinh, mười ba tuổi đỗ thứ hai kỳ thi tiểu học, mười bảy tuổi đã thi đỗ Thành chung khoá đầu tiên của Trường trung học Thành phố Vinh, Nghệ An. Đây là tiền đề quan trọng giúp anh thấy rõ hơn con đường đang đi phía trước.
        Tuy nhiên, cũng phải đợi đến lúc anh tự lập vào đời, rời xa bố mẹ thì Nguyễn Sĩ Sách mới thể hiện được đầy đủ bản lĩnh của mình. Giữa năm 1924, sau khi thi đỗ Thành chung, Nguyễn Sĩ Sách được bổ dụng làm trợ giáo tại Trường tiểu học Pháp-Việt, Thị xã Hà Tĩnh. Có thể nói đây là bước ngoặt hết sức quan trọng trong cuộc đời hoạt động của anh. Bởi chính nơi đây với công việc của một trợ giáo anh vừa có điều kiện thuận lợi tiếp cận sách báo bổ sung kiến thức, tiếp nhận thông tin trong nước và thế giới, tiếp cận với các tổ chức yêu nước vừa có môi trường thầy giáo, học sinh đông đảo để tiếp xúc, đón nhận và truyền bá những quan điểm tiến bộ của mình. Cũng ở thời điểm này có 3 sự kiện tác động mạnh đến tình cảm và hành động của Nguyễn Sĩ Sách cũng như những thanh niên
đương thời đó là:
                 Từ sau cuộc cách mạng tháng mười Nga năm 1917 thành công, tiếp đến là sự ra đời của Quốc tế cộng sản, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc bị áp bức trên thế giới dâng lên một cách mạnh mẽ, tạo nên sự chấn động và có sức thu hút lớn các chính trị gia của các nước đang đấu tranh chống áp bức bóc lột để giành độc lập dân tộc.
                 Trong nước phong trào yêu nước phát triển, đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam đang có những bước chuyển về chất, sau cuộc đấu tranh của hàng ngàn công nhân Ba Son, yếu tố đấu tranh tự giác đang ngày một rõ nét. Các tổ chức cách mạng của thanh niên từng bước được nhen nhóm đang có sức thu hút mạnh mẽ tầng lớp thanh niên trong nước.
                 Sau sự kiện vang dội của tiếng bom Phạm Hồng Thái- người thanh niên yêu nước Việt Nam bất chấp hiểm nguy ném tạc đạn vào tên Toàn quyền Đông Dương Méc-Lanh ở Sa Diện Trung Quốc, “báo hiệu bắt đầu thời kỳ đấu tranh dân tộc”(1). Trong các trường học ở Việt Nam, những quan đốc học thời Pháp hết sức miệt thị người Việt, thường xuyên răn đe, doạ nạt trấn áp thầy giáo học sinh có tư tưởng yêu nước, chống lại người Pháp càng giúp cho những trí thức có xu hướng tiến bộ có thêm điều kiện để nhận diện đúng hơn về cái gọi là “khai hoá văn minh” của chế độ thuộc địa của Pháp.
                Những tác động trên đã khiến cho Nguyễn Sĩ Sách càng thêm quyết tâm chọn lựa con đường cách mạng của mình. Trước hết anh ra sức tìm hiểu các biến động về chính trị xã hội, háo hức bí mật tìm đọc sách báo tiến bộ, thăm dò hoạt động cứu nước và quan hệ mật thiết với các bậc sĩ phu yêu nước đương thời. Thông qua việc tiếp xúc, tìm hiểu sách báo, anh dần dần có ý thức về những gì đang diễn ra trong xã hội Việt Nam. Từ đó anh hăng hái tham gia mọi hoạt động cách mạng. Tháng 7 năm 1925 Nguyễn Sĩ Sách được gia nhập Hội Phục Việt, đây là tổ chức cách mạng đầu tiên mà anh được tham gia do các phần tử trí thức yêu nước sáng lập. Nguyễn Sĩ Sách vốn là một con người bộc trực, như cụ Đặng Thai Mai đã từng nhận xét: “lời nói cũng như tâm hồn anh là cả một khối lửa, anh ít nói nhưng suy nghĩ nhiều, bởi vậy tiếng nói của anh có sức nặng”. Được đoàn thể giao nhiệm vụ xây dựng tổ chức và truyền bá tư tưởng yêu nước trong trường học và địa bàn thị xã Hà Tĩnh; anh hăng hái lao vào hoạt động một cách tích cực. Anh chọn trường Tiểu học Pháp Việt làm vườn ươm những nhân tố tích cực cách mạng đầu tiên; bí mật tìm đọc sách báo tiến bộ từ Pháp gửi sang và dịch ra tiếng Việt những bài  quan trọng để tuyên truyền rộng rãi trong đội ngũ học sinh và                     -------------------------------
(1) Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb ST, H, 1975, trang 62


  thầy giáo có tinh thần yêu nước. Chẳng bao lâu anh đã xây dựng được một số hội viên tích cực trong đó có có cả những thầy giáo như Nguyễn Trí Tư, Hoàng Đức Thi và học sinh như Trần Tích Thiện, Nguyễn Công Hoạch, Lê Bá Cảnh, Nguyễn Huy Lung, Nguyễn Đình Chuyên…
          Từng bước lao vào hoạt động anh dần dần phân tích những hành động, quan điểm của các nhà cách mạng tiền bối. Anh đã tìm gặp và chất vấn cụ Phan Bội Châu về bài luận : “Pháp Việt đề huề “ của cụ. Dẫu rất kính trọng cụ Phan,
 Nhưng anh vẫn khẳng định “Pháp Việt đề huề” là mâu thuẩn  với tư tưởng chống Pháp của Cụ Phan Bội Châu. Từ những bài học đầu tiên, Nguyễn Sĩ Sách càng trở nên cứng rắn và dứt khoát trong thái độ của mình. Anh quyết tâm đấu tranh đòi một sự bình đẳng, công bằng; phản đối những điều bất công, những hành động ngang ngược, thô bạo, bỉ ổi của quan chức và binh lính người Pháp đối với người Việt nam. Nguyễn Sĩ Sách đã kích sâu cay chiêu bài “bảo hộ”, chính sách “ khai hoá văn minh” của Thực dân Pháp và thái độ đê hèn của bọn vua quan phong kiến tay sai. Anh vận động thân sinh đốt đạo sắc “Hàn lâm đại chiếu” của chính vua Khải Định ban cho để tỏ nổi bất bình đối với tên vua “đớn hèn, bất lực và ngu dốt”. Những thái độ phản kháng đầu tiên trên đây đã thể hiện rõ một lập trường dứt khoát bất hợp tác với chế độ thuộc địa phong kiến đương thời của Nguyễn Sĩ Sách.
                  Cao hơn nữa đó là thái độ chống trả những sự đe doạ, quát nạt của bọn đại diện cho bộ máy thống trị thực dân từ Hiệu trưởng nhà trường,  Đốc học, Nha học chính Trung kỳ đến Công sứ Trung kỳ… Khi biết được những hoạt động yêu nước của Nguyễn Sĩ Sách, Hiệu trưởng Trường tiểu học Pháp-Việt thị xã Hà Tĩnh Tôn Thất Cổn đã tìm cách đưa anh vào “khuôn phép” như những giáo viên khác; hăm doạ anh phải theo sự sai khiến của y. Anh cự tuyệt mọi sự ràng buộc vô lý đó. Tên Đốc học và Công sứ Hà Tĩnh đã nhiều lần gặp anh, khuyên anh là thầy giáo còn non trẻ, hãy dẹp bầu nhiệt huyết ấy lại và nên đi theo hướng chăm lo trau dồi nghề nghiệp. Chúng ve vuốt anh về những tiền đồ phía trước đang rộng mở, chờ đón anh. Anh từ chối tất cả và tiếp tục hành động theo suy nghĩ của mình. Giám đốc Nha học chính Trung kỳ Đề-lê-xi phải gọi anh vào Huế và lên mặt kẻ cả:
       - Anh là đứa con được nước mẹ đại Pháp đào tạo, tại sao anh dám vô lễ cãi lại các bậc quan trên và có những hành động phản bội?
       Nguyễn Sĩ Sách thẳng thừng bác bỏ những buộc tội vô lý của Đề-lê-xi:
-         Tôi làm việc nghĩa. Tôi chống lại những những người làm việc thiếu đạo
đức. Sao các ông lại bảo tôi phản bội?
       Tức giận, Đề-lê-xi định giở thói hành hung, Nguyễn Sĩ Sách vớ chiếc ghế đang ngồi giơ lên chống đỡ rồi rời khỏi phòng làm việc của hắn.
       Thuyết phục, đe doạ không được; Nha học chính Trung kỳ đã buộc phải điều Nguyễn Sĩ Sách chuyển vào làm trợ giáo tại Trường tiểu học Pháp-Việt Phú Vang
gần Kinh đô Huế. Không chịu nổi trước những bất công trái ngược và cam chịu trói mình dưới sự khống chế của bọn thực dân đế quốc, chỉ một thời gian  Nguyễn Sĩ Sách đã từ bỏ nghề dạy học về quê tham gia hoạt động cách mạng. Bị bọn mật tham theo dõi, anh phải xin thi vào ngành đường sắt rồi làm thư ký xe lửa Đà nẵng. Căm phẩn thái độ hống hách của viên kiểm soát xe lửa người Pháp, anh lại bỏ việc về Vinh tham gia mở hiệu “ Tam kỳ thư quán” phát hành sách báo tiến bộ và tìm cách liên lạc với ban lãnh đạo Hội Hưng Nam để tham gia hoạt động cách mạng. Từ đây anh mới có cơ hội để xuất dương đi dự huấn luyện ở Quảng Châu và trở thành Bí thư Kỳ bộ thanh niên cách mạng đồng chí Hội Trung kỳ vào cuối năm 1927. Sau khi được đảm nhận trọng trách của đoàn thể giao cho, Nguyễn Sĩ Sách nhanh chóng trở thành đầu mối của đoàn thể. Anh liên lạc tiếp xúc với các tổ chức thanh niên cách mạng xúc tiến việc thảo luận để tiến tới việc hợp nhất thành lập Tổng hội trong nước. Đến tháng 7 năm 1929 Anh bị sa vào tay giặc, kẻ thù đã tra tấn anh một cách dã man nhưng anh vẫn giữ vững được khí tiết của một người cộng sản chân chính. Trong nhà tù đế quốc Nguyễn Sĩ Sách tiếp tục tổ chức anh chị em tù nhân đấu tranh, đòi yêu sách đảm bảo quyền lợi chính đáng cho tù nhân. Trước hành động phản kháng dữ dội của anh đối với tên chúa ngục, bọn tay sai đã sát hại anh khi anh chưa đầy 23 tuổi.
           Cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Sĩ Sách vẫn còn quá ngắn ngủi, song chỉ với 5 năm bước vào cuộc tranh đấu cho mục tiêu lý tưởng cách mạng, Nguyên Sĩ Sách đã để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về ý chí quyết tâm, tinh thần quả cảm trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Từ một thầy giáo trẻ với những kiến thức, vốn sống ban đầu còn ít ỏi, bước vào hoạt động cách mạng anh đã sớm trưởng thành, tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên nhiệt huyết cách mạng. Tuy nhiên  tìm hiểu quá trình hoạt động, trưởng thành và sự chuyển biến căn bản trong tư tưởng của Nguyễn Sĩ Sách ta không thể không nhấn mạnh mốc lịch sử quan trọng về những ngày anh làm trợ giáo tại trường tiểu học Pháp-Việt thị xã Hà Tĩnh. Bởi chính nơi đây đã giúp Nguyễn Sĩ Sách nhận thức đúng  về bản chất của nhà trường dưới sự thống trị của người Pháp, được tận mắt chứng kiến những bất công, tàn ngược dưới chế độ thống trị của thực dân, được tiếp cận những tổ chức, cá nhân có tinh thần yêu nước chân chính… tất cả đó như những chất xúc tác hữu hiệu cuốn hút, thúc dục anh từ bỏ con đường dạy học để  hiến thân cho một sự nghiệp cao cả. Trường Tiểu học Pháp-Việt đã trở thành nơi quyết định, khẳng định quyết tâm đi theo con đường cách mạng của Nguyễn Sĩ Sách; đồng thời đánh dấu bước chuyển quan trọng về tư tưởng chính trị của Nguyễn Sĩ Sách: Từ một giáo chức trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng, một đầu mối tập hợp lực lượng của các tầng lớp thanh niên trí thức, học sinh yêu nước tiến bộ lúc bấy giờ tại khu vực miền Trung nước ta   ./.

                                                          Th.S  Trần Quang Trung
                                                                       2009

Phụ nữ-hiện thân của hạnh phúc gia đình

PHỤ NỮ - HIỆN THÂN CỦA HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ.

     Phụ nữ là lực lượng đông đảo hơn nửa phần của xã hội. Năng lực làm việc và trí thông minh " Không thua kém đàn ông". Ngoài ra phụ nữ còn có thiên chức mà người đàn ông không có, cho nên vị trí của người phụ nữ rất lớn.
      Trong thời đại mới một xã hội tốt phải được xây dựng trên cơ sở các tế bào tốt.- các gia đình văn minh hạnh phúc.; thì người phụ nữ càng có vai trò quan trọng. Xã hội ngày một phát triển, tuổi thọ bình quân tăng lên, gia đình trở thành một đơn vị kinh tế đã đặt ra yêu cầu cho mỗi gia đình phải có sự phân công điều hành và tổ chức chặt chẽ. Đã có một bộ phận, người phụ nữ quyết định toàn bộ những vấn đề trong gia đình. Song phần lớn gia đình còn lại, phụ nữ đóng vai trò như người tham mưu quan trọng nhất. Họ vừa hiến kế, vừa động viên, chuẩn bị điều kiện cho mọi thành viên tham gia thực hiện công việc gia đình. Lúc đó người đàn ông như là trụ cột chính để chủ trì và quyết định những khâu then chốt nhất. Những gia đình như vậy thường đảm bảo hạnh phúc, ổn định. Nếu mỗi thành viên không xác định rõ vị trí của mình thì ít nhiều có ảnh hưởng trở ngại đến tốc độ phát triển và sự bền vững của nó.
        Trong thời kỳ công nghiệp hoá, yếu tố vật chất tinh thần đều rất quan trọng và gắn bó mật thiết với nhau trong mọi gia đình. Vật chất quá thiếu thốn sẽ không có sự thoải mái tinh thần, ngược lại nếu điều kiện tinh thần không được chăm lo thoả đáng thì vật chất sẽ không còn có ý nghĩa. Hạnh phúc của mỗi gia đình không phát triển cùng chiều với sự giàu có. Trong thực tế có những gia đình khi điều kiện vật chất khấm khá đã học đòi hoang phí, dẫn đến sa sút về đời sống tinh thần, khủng hoảng và mệt mỏi. Không ít những gia đình cha mẹ có vị trí trong xã hội, vẫn không toại nguyện hoặc cô đơn khi con cái hư hỏng không thành đạt. Thậm chí có gia đình, chính thành viên này làm hỏng sự nghiệp của những thành viên khác do không giữ được giới hạn cần thiết. Phụ nữ chính là con người có vai trò lớn trong việc điều tiết giới hạn đó. Họ còn là người có vai trò bảo vệ vững chắc nhất thành quả của từng thành viên trong gia đình, để các thành viên phát huy  thế mạnh và vị trí của mình tránh được những nông nổi không cần thiết.
        Phụ nữ là người đầu tiên ủng hộ về mặt tinh thần các ý tưởng, ước mơ của người đàn ông trong gia đình. Những ý định của người chồng, con cái, không ai khác, trước hết được bày tỏ với người mẹ trong gia đình và người mẹ thường là người có thái độ đầu tiên. Sau đó họ còn phải tham gia quyết định kế hoạch, quy mô, bước đi v.v... của mỗi công việc lớn bé trong gia đình. Phụ nữ dù ở mọi cương vị khác nhau đều lo lắng theo dõi sát đến sự thành đạt, bước tiến của mọi thành viên. Bởi đó là mục tiêu cuộc đời của họ, kể từ khi tuyên bố khai sinh ra " một tế bào" mới của xã hội. Đây chính là một đặc điểm lớn của nền văn minh phương Đông - nền văn minh nông nghiệp lúa nước, mang đậm sự cấu kết chặt chẽ cả các thành viên trong cộng đồng xã hội nói chung, từng gia đình nói riêng.
         Trong mỗi gia đình nét đặc trưng văn hoá thường biểu hiện rất rõ dấu ấn bàn tay người phụ nữ. Sự gọn gàng, ngăn nắp, sự kín đáo trong phô trương, sự ấm cúng trong lạnh lùng...  tuỳ thuộc lớn ở người phụ nữ. Vì thế phụ nữ trở thành tấm gương tần tảo, hay lam hay làm, tận tuỵ chịu thương chịu khó để lại ấn tượng sâu sắc trong mỗi thành viên. Sự thiếu vắng người mẹ dù chỉ trong một thời gian, mỗi gia đình như cảm thấy hẩng hụt trống vắng không ai có thể thay thế được. Ở mỗi gia đình mối quan hệ hoà thuận giữa người bố và người mẹ là yếu tố căn bản nhất. Hạnh phúc hay bất hạnh đều bắt nguồn từ quan hệ vợ chồng. Mọi trục trặc xẩy ra trong cuộc sống thường ngày, người vợ có vai trò lớn trong việc điều tiết quỹ đạo của nó. Ngay cả khi sự việc xẩy ra từ phía người chồng thì chính người vợ, chứ không ai khác sẽ là người dẫn dắt, an ủi, tha thứ bằng sự độ lượng đặc biệt. Tục ngữ có câu:
                          " Chồng dận thì vợ bớt lời,
                           Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê"
      Trong quan hệ với con cái cũng vậy, tính trội của người cha là sự nghiêm khắc, tính trội của người mẹ là sự hiền từ bao dung, vì người con là một phần máu thịt của họ. Xưa các cụ vẫn bảo: " Con hư tại mẹ", "Con dại cái mang" . Sợi dây ràng buộc ấy là cơ sở để người mẹ có tiếng nói mãnh liệt đối với con cái. Ngay cả với trường hợp con cái có dấu hiệu tội lỗi, thì sự nghiêm khắc của người bố đôi khi chưa hẳn đã có hiệu quả bằng tiếng gọi của người mẹ để đưa chúng trở về với lẽ phải.
        Hiện nay trong công cuộc xây dựng đất nước, vị trí truyền thống của người phụ nữ chẳng những được duy trì mà còn được phát huy hơn do vị thế của người phụ nữ được nâng cao trong xã hội . Với 20% trong Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, hơn 5% trong số các trí thức lớn - Giáo sư, phó giáo sư, phụ nữ nước ta không những có vị trí lớn trong xã hội mà càng được khẳng định mình trong những gia đình hiện đại. Điều đó cho thấy phụ nữ thật xứng đáng là hiện thân của hạnh phúc gia đình- hạt nhân của các tế bào xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

                                                          Trần Quang Trung
                                            Đặc san Phụ nữ Hà Tĩnh số 3/1999

Quan tâm hơn công tác Biên soạn Lịch sử trong lĩnh vực tư tưởng

QUAN TÂM HƠN CÔNG TÁC BIÊN SOẠN LỊCH SỬ
TRONG LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

       Mỗi người chúng ta ai cũng có một niềm tự hào chính đáng, những kỷ niệm về quê hương, đất nước - mảnh đất nơi mình đã được sinh ra và lớn lên; chắp cánh cho mỗi người trưởng thành, vươn tới những đỉnh cao của cuộc sống. Làm tốt công tác lịch sử sẽ giúp cho chúng ta có được những niềm tự hào chính đáng, tăng thêm những nhân tố bồi đắp cho nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để chiến thắng mọi trở lực trên con đường vươn tới mục tiêu lý tưởng.
        Công tác lịch sử hiểu một cách đầy đủ hơn bao gồm cả việc sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn và giáo dục truyền thống. Đây là một lĩnh vực rất quan trọng trong  công tác tư tưởng của Đảng. Người xưa vẫn dạy rằng: "Ôn cố nhi tri tân"- nghĩa là ôn cái cũ để biết mới. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đầy đủ đến công tác lịch sử; coi đó là một bộ phận không thể tách rời trong công tác tư tưởng của Đảng và như một trong những yếu tố tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để chiến thắng mọi kẻ thù.
       Không phải ngẫu nhiên mà các đồng chí lãnh tụ Đảng ta phần lớn đều am hiểu tường tận lịch sử dân tộc. Lúc còn sống, Bác Hồ rất quan tâm đến việc giáo dục truyền thống. Người còn sáng tác ra văn vần để giới thiệu về lịch sử nước ta. Bởi lịch sử vốn có sức mạnh to lớn trong công tác tư tưởng của Đảng. Thông qua lịch sử, chúng ta thấy được niềm tự hào chính đáng về Đảng ta, dân tộc ta. Suốt 75 năm phấn đấu trưởng thành, Đảng và nhân dân ta đã vượt qua biết bao chông gai thử thách mới có được thắng lợi vẻ vang. Một trong những nguyên nhân rất quan trọng để dân tộc ta chiến thắng, chính là nhờ chúng ta có truyền thống hàng ngàn năm lịch sử với những bài học kinh nghiệm quý giá được đúc kết trong quá trình dựng nước và giữ nước
       Ngày nay trong công cuộc xây dựng CNXH, mà trước mắt đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chúng ta nhận thức rõ rằng việc phát huy tiềm năng, sức mạnh vốn có hiện tại luôn luôn gắn liền với việc khơi dậy nguồn sức mạnh của quá khứ. Bởi vì quá khứ, hiện tai, tương lai chỉ là một dòng chảy xuyên suốt, tuy biểu hiện có lúc khác nhau nhưng bản chất chỉ là một. Thực tế cho thấy rất nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đã chăm lo đến công tác lịch sử trên tất cả các phương diện, từ việc chăm lo giáo dục cho thế hệ trẻ những truyền thống tốt đẹp của địa phương, xây dựng quy ước, hương ước của làng xã, phát huy truyền thống của các dòng họ, đến việc chăm lo khôi phục lại các giá trị văn hoá phi vật thể.v.v… nhưng trong đó đặc biệt phải nói tới việc tổ chức biên soạn lịch sử các Đảng bộ, lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng, lịch sử ngành, đoàn thể ở các địa phương.
        Trong những năm vừa qua, dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng và chính quyền, công tác lịch sử ở Hà Tĩnh chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tốt. Những bộ lịch sử có giá trị lớn như Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh  2 tập, Lịch sử Hà Tĩnh 2 tập, Hà Tĩnh 30 năm kháng chiến, Một số trận đánh tiêu biểu của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh, Làng cổ Hà Tĩnh, Di tích danh thắng Hà Tĩnh.v.v… là những bộ sách được các nhà nghiên cứu trong nước và địa phương trân trọng. Cho đến nay hầu hết các huyện thị trong tỉnh đã tổ chức biên soạn và xuất bản Lịch sử đảng bộ đến năm 2000. Một số ngành đã và đang tổ chức biên soạn lịch sử ngành, đoàn thể. Hầu hết các xã phường đang tổ chức sưu tầm, nghiên cứu biên soạn lịch sử địa phương. Tuy nhiên để có những cuốn sử có chất lượng, người viết phải có những hiểu biết cần thiết về phương pháp nghiên cứu biên soạn lịch sử; trả lời được viết sử là viết cái gì, viết sử khác với viết văn, viết báo, ghi chép sự kiện như thế nào, phải dùng phương pháp gì và ai có thể làm được việc đó …. Trong khi việc tổ chức biên soạn lịch sử đang được các cấp, các ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội quan tâm, công tác lịch sử nói chung đang ngày một tác động tích cực đến tâm tư tình cảm, sức mạnh của cộng đồng, thì đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết tốt.
         Từ thế kỷ 19, Các Mác đã nói một câu sâu sắc: "chỉ có một khoa học duy nhất đó là khoa học lịch sử". Từ đó chúng ta có thể hiểu được rằng làm sử là một công việc khoa học, đòi hỏi phải được đối xử khoa học. Muốn có một cuốn sử tốt nhất thiết cần phải được những người có hiểu biết về khoa học lịch sử tham gia. Viết sử là dựng lại lịch sử một cách chân thực để các thế hệ sau hiểu đúng bản chất của lịch sử đã diễn ra, giúp người đọc nhận ra được chổ đứng của mình để nhìn lại lịch sử một cách đúng đắn. Qua lịch sử người đọc không phải chỉ hiểu các sự kiện lịch sử đã diễn ra  như một sự liệt kê chắp nối  những sự kiện, mà điều quan trọng là chổ có thể  hiểu
được vì sao có được những sự kiện như vậy, bản chất của những sự kiện đó là gì và giữa các sự kiện lịch sử có mối quan hệ với nhau như thế nào; để từ đó rút ra cho mình những điều bổ ích nhất cho cuộc sống hiện tại. Để có thể dựng lại lịch sử một cách chân thực người viết cần có những hiểu biết cơ bản, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực khoa học; có phương pháp xem xét, chọn lựa và thể hiện của bộ môn khoa học lịch sử, không mảy may vì danh, lợi cá nhân trong khi nghiên cứu biên soạn lịch sử. Một cuốn sử viết sai bản chất vấn đề có thể gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ của cả một dân tộc; ngược lại một cuốn sử tốt có thể khơi dậy sức mạnh và niềm tự hào của một cộng đồng, hoặc cả dân tộc. Vì thế những người làm sử chân chính thường có bản chất trung thực, có bản lĩnh và lòng dũng cảm trong quá trình tái tạo lại lịch sử.
         Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta, vô cùng biết ơn những người đã góp phần làm nên lịch sử, nhưng không phải bất cứ người nào đã góp phần làm nên lịch sử đều có thể viết được lịch sử. Nhiều đơn vị đã phải bỏ dở công trình chỉ vì người viết sử không có đủ những điều cần thiết, do vậy đã không xử lý được những phức tạp trong quá trình biên soạn, không thể vượt qua những đòi hỏi của thực tiễn, để chấp nhận sự tốn kém và lảng phí. Mặc dù những cuốn sử sau khi ra đời nó có thể tồn tại lâu dài, nhưng một cuốn sử không phản ánh đúng bản chất lịch sử, viết thiếu chính xác sẽ không có giá trị giáo dục truyền thống, vì vậy việc tổ chức nghiên cứu, biên soạn lịch sử phải được các cấp uỷ, chính quyền chỉ đạo chặt chẽ.
         Một điều cần quan tâm nữa là: làm sử cần có kinh phí cần thiết. Không thể hoàn tất một cuốn sử chỉ bằng sự quyết tâm và lòng nhiệt tình. Để viết một cuốn sử nhất thiết cần có nguồn tư liệu phong phú. Thời gian càng lùi xa nguồn tư liệu càng trở nên hiếm và quý, vì vậy người viết sử phải tổ chức đi sưu tầm, khai thác, xác minh, thẩm định tư liệu. Tư liệu càng chính xác thì việc thể hiện vào sử mới có sức thuyết phục cao. Việc khai thác tư liệu, sử dụng tư liệu các nguồn khác nhau, sử dụng tư liệu hồi ký, đưa tên các nhân vật vào lịch sử thế nào để cho một cuốn sử ra đời có giá trị lâu dài… đều có bộ môn khoa học lịch sử giải quyết, chứ không thể theo ý chủ quan của người viết. Hiện nay nhiều địa phương trong cả nước đã có những cách giải quyết khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương đơn vị tổ chức viết sử. Điển hình như Hà Tây mỗi bản thảo lịch sử của cơ sở đưa về thẩm định ở tỉnh đều được cấp thêm mười triệu đồng cho việc xuất bản.
        Để cho các cuốn sử xuất bản có chất lượng tốt, tránh bớt những sai sót cần được tổ chức thẩm định chu đáo. Ban Bí thư trung ương Đảng đã có chỉ thị số 15 - CT/TW ngày 28/8/2002 yêu cầu các địa phương "nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng phải bảo đảm tính đảng, tính khoa học và phục vụ đắc lực đường lối, nhiệm vụ chính trị hiện nay của Đảng". Trung ương đã có quy định về việc giao cho Ban Tuyên giáo các cấp giúp cấp uỷ tổ chức thẩm định các bản thảo lịch sử các Đảng bộ, ngành và đoàn thể. Bởi trong ban tuyên giáo các cấp có bộ phận chuyên trách công tác lịch sử theo quy định.  Tuy vậy vẫn còn một số đơn vị chưa chú ý thực hiện tốt. Nhiều cấp uỷ chưa chú ý đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác lịch sử theo quy  định của Ban Bí thư Trung ương, thậm chí có nơi còn bố trí cán bộ phụ trách công tác lịch sử nhưng chưa có những kiến thức đào tạo, bồi dưỡng cần thiết về lịch sử, vì thế ít nhiều đã ảnh hưởng hạn chế đến công tác giáo dục truyền thống của địa phương.
         Để góp phần làm tốt hơn công  tác    tưởng trong Đảng bộ và nhân dân ta, không  thể không quan tâm đầu tư đúng mức về mọi mặt cho công tác lịch sử, bởi đó là một bộ phận không thể thiếu trong các binh chủng tư tưởng của Đảng. Làm tốt công tác lịch sử sẽ giúp chúng ta có điều kiện để tăng cường giáo dục truyền thống tốt đẹp của Đảng, quê hương và dân tộc; khơi dậy niềm tự hào, sức mạnh truyền thống to lớn vốn có của chúng ta. Làm tốt công tác lịch sử còn giúp cho mỗi người tăng thêm bản lĩnh tự tin trước mọi thử thách của cuộc sống. Quan tâm đúng mức công tác lịch sử là biểu hiện của lòng thuỷ chung với dân tộc, với sự nghiệp các bậc tiền bối của Đảng, là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh của cả cộng  đồng quê hương, dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ./.

                                                                    Trần Quang Trung
                                                                                                                                                                              2007
                                                                            

Vài nét về phát triển kinh tế ở Hà Tĩnh trong chiến tranh phá hoại

VÀI NÉT VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HÀ TĨNH
THỜI KỲ CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI

    Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra phạm vi cả nước, Hà Tĩnh với vị trí địa lý của  mình đã trở thành  một địa bàn xung yếu của cuộc kháng chiến và là một trong những trọng điểm đánh phá của kẻ thù. Cùng với Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh có trách nhiệm hết sức nặng nề trong việc làm cầu nối, chuyển tải sức mạnh của hậu phương ra tiền tuyến. Việc duy trì, kiến thiết những cơ sở kinh tế ở hậu phương nói chung, Hà Tĩnh nói riêng nhằm đáp ứng thường xuyên nhu cầu của cuộc kháng chiến là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi ở chiến trường. Nhiệm vụ nói trên đặt ra cho đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh những yêu cầu lớn như sau:
      1. Bảo đảm chiến đấu vả phục vụ chiến đấu; cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến một cách đầy đủ nhất, bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt từ  Bắc vào Nam trong bất kỳ tình huống nào.
      2. Bảo đảm mọi yêu cầu của cuộc kháng chiến tại địa phương, chống lại cuộc chiến tranh phá hoại và mọi thủ đoạn phá hoại khác của địch .
      3. Tích cực bảo vệ và kiến thiết các cơ sở kinh tế trong điều kiện để vừa phục vụ kháng chiến trước mắt, vừa chuẩn bị những nhân tố lâu dài cho công cuộc xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc.
      Từ định hướng của những nghị quyết Trung ương và Tỉnh uỷ về việc chuyển hướng phát triển kinh tế trong điều kiện có chiến tranh, tình hình kinh tế Hà Tĩnh đã sớm có một bước chuyển đáng kể phù hợp với hoàn cảnh thời chiến trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết, Hà Tĩnh đã chú trọng xây dựng và phát triển mạnh mẽ công nghiệp địa phương để đáp ứng những nhu cầu cấp bách do tình hình mới đặt ra như: lắp ráp tàu thuyền, cầu phà, sữa chữa xe máy, vũ khí, thiết bị kỷ thuật phục vụ chiến đấu, sản xuất các công cụ sản xuất và đồ dùng theo yêu cầu thời chiến của nhân dân, lực lượng vũ trang.v.v...
        Cùng với việc củng cố, trang bị thêm cho những cơ sở sản xuất cũ, tỉnh đã xây dựng được nhiều cơ sở công nghiệp mới . Một loạt xí nghiệp ra đời trong bối cảnh đó như xưởng cơ khí thông dụng, cơ khí sữa chữa ô tô, xí nghiệp thuỷ tinh, đóng thuyền, gạch ngói, sành sứ, đường, ép dầu lạc, xà phòng....
        Để phù hợp với thời chiến, tỉnh đã tập trung đầu tư cho các xí nghiệp, cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp có quy mô nhỏ, phân tán dựa vào dân. Các đơn vị sản xuất này yêu cầu phải có tính cơ động cao, di chuyển thuận lợi khi cần thiết, đảm bảo an toàn trong sản xuất  và phải nhằm vào khai thác  các tiềm năng tại chổ của các địa phương. Bên cạnh những cơ sở công nghiệp quốc doanh, tỉnh đã chú trọng xây dựng các hợp tác xã ở các địa bàn huyện và các tổ sản xuất nhỏ trong nông thôn.
        Trong suốt thời gian chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1964-1968), Hà Tĩnh đã bỏ ra một số vốn đáng kể để phát triển công nghiệp, bằng 149% tổng số vốn đầu tư cho công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Sau 4 năm chiến tranh, Hà Tĩnh đã xây dựng thêm 22 xí nghiệp mới, 9 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp huyện và 160 tổ rèn trong các thôn xóm.
      Chiến tranh càng diễn ra ác liệt, kẻ địch thường xuyên tìm cách đánh phá các cơ sở sản xuất, công việc bảo vệ và phát triển công nghiệp địa phương càng hết sức khó khăn, phức tạp. Nhờ chủ trương đúng và sự nổ lực lớn của đội ngũ cán bộ, công nhân của tỉnh, công nghiệp, thủ công nghiệp của Hà Tĩnh chẳng những không bị sa sút mà trái lại còn đứng vững và phát triển. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương đạt 28 triệu đồng năm 1964, đã tăng lên 39 triệu đồng năm năm 1974. Đặc biệt, trong những năm chiến tranh ác liệt nhất như năm 1967, tỉnh đã đạt 38.802.000 đồng, tăng 20%(1)  so với trước chiến tranh phá hoại. Từ năm 1967, ngoài việc phát triển sản xuất phục vụ yêu cầu trong nước, Hà Tĩnh đã bước đầu mở mang một số ngành nghề phục vụ xuất khẩu như làm mành, đan mây.v.v...
       Đội ngũ công nhân cũng được phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, Hà Tĩnh đã có 8.000 công nhân, tăng 100% so với ngày đầu cuộc chiến. Năm 1969, trong toàn ngành công nghiệp, Hà Tĩnh đã có 39 người có trình độ đại học, 319 người có trình độ trung cấp kỷ thuật(2) . Nhìn chung công nghiệp và thủ công nghiệp Hà Tĩnh đã góp một phần quan trọng trong việc đáp ứng kịp thời những nhu cầu của cuộc kháng chiến, của lao động sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân.
        Trên mặt trận nông nghiệp, Hà Tĩnh cũng có những nổ lực phi thường để giữ vững sản xuất trong điều  kiện vừa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, vừa phải đương đầu với bom đạn Mỹ. Kẻ địch đã đánh 1419 lần vào đồng ruộng, 118 lần vào các nông trường,1169 lần vào các công trình thuỷ lợi, phá huỷ 6500 ha diện tích sản xuất lương thực. Chỉ riêng trong 4 năm từ 1964 đến 1968 đã có 703 trong số 745 hợp tác xã bị địch đánh phá, có những Hợp tác xã bị chúng đánh tới mức độ huỷ diệt.
         Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ đã đề ra nghị quyết khẩn cấp chỉ rõ những vấn đề lớn trước mắt và tập trung chỉ đạo đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp để đạt mục tiêu tự túc lương thực. Tỉnh uỷ nêu khẩu hiệu: " Hà Tĩnh tự túc được lương thực là đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" (2). Theo phương hướng đó, Hà Tĩnh đã dấy lên phong trào quần chúng mạnh mẽ, tập trung vào những chiến dịch lớn trong nông nghiệp như: thuỷ lợi, phân bón, xây dựng điểm cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp, xây dựng điểm tăng sản, phát triển chăn nuôi, phát triển rau màu.v.v... Chỉ tính 90 ngày của chiến dịch thuỷ lợi Bồng Sơn, Hà Tĩnh đã huy động 95.000 thanh niên tham gia, đào đắp được 10.234..840 m3  đất, đưa diện tích được tưới nước lên 28.000ha, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Cùng với chiến dịch thuỷ lợi, những chiến dịch khác cũng đã mang lại hiệu quả thiết thực như chiến dịch trồng sắn năm 1967; chiến dịch sản xuất rau màu chống giáp hạt Đông - Xuân 1967-1968.v.v... Qua đó, diện tích trồng khoai đã tăng từ 18.000ha lên 20.000ha, diện tích trồng sắn  tăng từ 3.000ha lên 7.000ha....(3). Ngay trong những ngày bom đạn ác liệt, Hà Tĩnh còn khai thác được hàng chục ngàn m3 gỗ cùng hàng chục ngàn tấn muối mỗi năm. Nhiều hợp tác xã đánh cá bị địch phá hoại 80% đến 90% thuyền lưới vẫn bám biển sản xuất. Các đàn gia súc gia cầm trong tỉnh vẫn được duy trì và phát triển, cung cấp kịp thời hàng ngàn tấn thịt mỗi năm cho lực lượng vũ trang, cán bộ và nhân dân trong  tỉnh và cho các chiến trường khác.
       Phát triển kinh tế ở Hà Tĩnh trong những năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ còn rất nhiều vấn đề chưa thể phản ánh đầy đủ trong phạm vi bài viết này, như việc tổ chức di dân trong chiến tranh, vấn đề phát triển giao thông trong thời chiến, tổ chức lực lượng bán vũ trang trong các xí nghiệp, lâm trường, tổ chức cơ động sản xuất trong một số HTX nông nghiệp.v.v... Tuy vậy, với một số tìm hiểu trên đây, bước đầu chúng ta cũng có thể nêu lên một vài suy nghĩ như sau:
        1. Chủ trương phát triển kinh tế trong điều kiện có chiến tranh ở Hà Tĩnh là hoàn toàn đúng đắn và là một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở địa phương. Thực tế cho thấy, trong điều kiện kẻ địch ném hàng vạn tấn bom đạn xuống địa phương, hàng vạn thanh niên phải lên đường nhập ngũ (năm cao như 1972 có 12.417 người), nếu không có sự duy trì và phát triển về mặt kinh tế chắc chắn sẽ không có đủ lương thực, thực phẩm phục vụ chiến đấu ở địa phương, không thể một lúc gom góp huy động  hàng vạn ngày công với 5 nghìn tấn gạo, 1000 tấn thịt phục vụ chiến trường như tháng 5 năm 1966, không thể ứng cứu kịp thời cho bộ đội đường 9 khi khẩu phần bị giảm xuống chỉ còn 100g / người mỗi ngày vào tháng 9 năm 1968.
          2. Chiến tranh làm đảo lộn nhiều mặt trong đời sống xã hội, do đó để thích nghi và đáp ứng yêu cầu của thời chiến, Hà Tĩnh đã không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo tổ chức, chỉ huy của mình trong xây dựng và phát triển kinh tế địa phương.  Ngày ấy dã có những làng như Tiến Lộc (Can Lộc) viết đơn xin dời làng để  làm đường cho xe qua; đã có những lúc Hà Tĩnh huy động hàng vạn người lên công trường thuỷ lợi, đắp đê chống lũ lụt; có những đơn vị bám trụ suốt ngày đêm dưới trọng điểm đánh phá của kẻ thù mà không mảy may do dự. Qua thử thách của chiến tranh, quần chúng càng tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng càng được tổ chức chặt chẽ và phát huy cao hơn. Nếu năm 1965 ở Hà Tĩnh mới có 89,1% nông dân tham gia Hợp tác xã thì đến năm 1968 đã có 96% nông dân tham gia. Chính trên cơ sở giác ngộ của quần chúng, năng lực tổ chức chỉ huy của con người được nâng cao và thông qua các tổ chức kinh tế tập thể mà Hà Tĩnh làm tốt được việc huy động nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu, nếp sống kỷ cương trong điều kiện chiến tranh.
        3. Phát triển kinh tế gắn với chiến đấu và phục vụ chiến đấu là sự phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc trong điều kiện mới. Khẩu hiệu  "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", " Tay cày tay súng, tay búa tay súng".v.v... thật sự đã biến thành hành động của quần chúng dưới thời chống Mỹ. Nhìn lại những chặng đường đã qua, Hà Tĩnh càng thấy quý trọng và tự hào về những thành quả đạt được trên lĩnh vực phát triển kinh tế, những thành quả đã từng phải đổi bằng xương máu và góp phần cùng cả nước giành thắng lợi oanh liệt trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. /.

                                                            Trần Quang Trung
                                               Tạp chí Lịch sử quân sự số 3 / 1994