Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

Ký ức thân thương về anh bộ đội cụ Hồ

   Kỷ niệm 70 năm thành lập Lực lượng Vũ trang Hà Tĩnh 18/8/1945-18/8/2015
             Gia đình tôi thuộc diện di dời từ miền xuôi lên miền núi. Hồi đó dân cư thưa thớt lắm, đi hàng tiếng đồng hồ mới có nhà dân. Nhà tôi nằm ở xóm cuối của Xã biên giới Hương Điền, thuộc huyện Hương Khê (nay thuộc huyện Vũ Quang, Hà Tĩnh). Trước ngày Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 100/TTg  thống nhất các đơn vị bộ đội làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới với các đơn vị công an biên phòng để thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang ngày 3-3-1959; Trạm bảo vệ nội địa biên giới đóng tại thôn Kim Quang, xã Hương Quang còn do lực lượng bộ đội đảm nhiệm. Ở đó có một đơn vị bộ đội thuộc tỉnh đội phụ trách- người dân quen gọi Đồn bộ đội.
     Đo địa hình núi non hiểm trở, đường sá đi lại chỉ theo những lối mòn quen thuộc nên việc đi công tác ngược xuôi của bộ đội mất rất nhiều thời gian. Nhà tôi như một trạm dừng chân trên đường từ tỉnh về đồn và ngược lại của anh em chiến sĩ. Bộ đội đi bộ hoặc đi ngựa đều ghé qua nhà tôi nghỉ chân. Hồi trước phương tiện đi lại tối ưu của đơn vị là dùng ngựa, tôi thường mãi mê ngắm nhìn những chú ngựa khi cho nó bắp ngô, để rồi sau đó nó lại lên đường làm nhiệm vụ. Có lẽ đến bây giờ tôi mới hiểu vai trò của nó khi mình đã được ngồi trên những chiếc xe thư thái với đôi chân không mỏi. Gia đình tôi như người nhà thân thiết của đồn. Mỗi lần tết đến xuân về, chỉ huy đồn lại cho mời chúng tôi về đồn chơi để cùng vui tết. Còn nhỏ nên tôi ấn tượng nhất là được các anh cho đi xem súng đạn, quân trang quân dụng...thứ nào cũng xếp hàng ngay ngắn, gọn gàng, trật tự trông rất đẹp mắt. Các anh còn nói với tôi  rằng có làm như vậy, khi cần mới lấy nhanh được, chẳng ai còn phải đi tìm. Điều này cứ đọng mãi trong tôi trong quá trình lớn lên. Về sau làm bất cứ công việc gì tôi cũng lo đầu tư sắp xếp có quy tắc riêng. Những ngày còn đang công tác, tôi luôn là người đáp ứng nhanh nhu cầu tra cứu tài liệu khi cần cho đồng nghiệp.
        Khi còn nhỏ chúng tôi quý anh bộ đội vô cùng. Các bậc cha anh thường nói với chúng tôi rằng: các anh là bộ đội cụ Hồ, là người thường xuyên sẵn sàng đi đánh giặc bảo vệ cuộc sống bình yên cho mọi xóm làng và là chổ dựa vũng chắc chắc của chúng ta. Tôi lớn lên đi học xa nhà, đường rừng xa xôi héo lánh, lại không có bạn đi cùng. Nhiều hôm phải đi một mình trên những quảng đường trong rừng đại ngàn đêm, mưa và sợ. Biết như vậy các anh là người động viên cổ vũ có hiệu quả nhất. Hồi đó có anh bộ đội của đồn tên là Tòng đã động viên tôi: chẳng có gì phải sợ; các anh còn đi lại thường xuyên trong rừng mà. Nhưng điều làm tôi vui nhất là anh còn cho một chiếc dao găm làm bằng xác máy bay địch. Trong chặng đường rừng cây cối um tùm tôi luôn mang theo, không phải để chơi, để hù doạ ai mà để chặt cây làm gậy đi đường, làm vũ khí tự vệ khi cần thiết. Nó được xem như một thứ bảo bối về sức mạnh hộ mệnh, giúp tôi thêm vững bước. Bây giờ không còn biết anh ở đâu, chiếc dao lâu quá đã không còn, song tôi vẫn rất biết ơn anh về kỷ vật đáng quý ấy. Chính anh bộ đội là người đã sớm giúp tôi vững vàng hơn, quyết tâm hơn vượt hoàn cảnh khó khăn để vươn lên trong cuộc sống.
         Lớn lên tôi càng hiểu thêm về giá trị của sự tự rèn luyện. Tôi không có thời gian trong quân ngũ nhưng tôi rất chăm lo rèn luyện tự vệ. Tôi thích nội vụ gọn gàng còn nhờ được làm sinh viên cùng bộ đội đi học. 6 anh em ở chung phòng, chỉ tôi là sinh viên trẻ. Tôi tuân thủ quy tắc các anh, chăn màn ngủ xong lúc nào cũng phải vuông thành sắc cạnh. Tư trang, quần áo, dép mũ để dúng chổ quy định.... Thời gian sinh viên sơ tán tại Yên phong Hà Bắc vào năm 1972, tôi biết bơi dài hơn là vì đã cùng tập bơi sáng ngược dòng sông Cầu với mấy anh bộ độ Hải quân cùng lớp. Tôi rất mê súng và luyện tập bắn súng nên cũng không mấy bất ngờ và thường đạt kết quả cao khi bắt súng đạn thật ở các kỳ huấn luyện tự vệ và bắn súng ngắn tại trường huấn luyện cán bộ dân sự ở  Quân khu...
        Thế hệ cao tuổi hôm nay chắc chẳng mấy ai không có những kỷ niệm đẹp về anh bộ đội. Không chỉ lúc trong quân ngũ mà ngay khi hoàn thành nhiệm vụ trở về; hình ảnh đẹp của anh bộ đội cụ Hồ vẫn luôn được toả sáng trên mọi nẻo đường,  mọi lĩnh vực với sức sống,  nghị lực và chất cứng rắn kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì dân vì nước vì lẽ phải.
      Cũng chẳng phải nói gì nhiều về những chiến công lẫy lừng trong lịch sử, vì cuộc sống đã và đang đi về với thực tại. 70 mươi năm đi qua với nhiều thử thách và chiến công;  lực lượng vũ trang Hà Tĩnh, đã để lại biết bao kỷ niệm đẹp trong lòng người dân. Trong tôi vẫn luôn hiện về hình ảnh bình dị, thân thương của anh bộ đội, người đã tiếp sức cho tôi lớn lên trong chặng đường đời. Trong thử thách của sự nghiệp đổi mới hôm nay, tôi mong và tin các anh không bao giờ làm mờ nhạt niềm tin yêu của tổ quốc và nhân dân./.

                                                                                                                          8-2015

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

Cách mạng tháng Tám Hà Tĩnh thành công khi ý Đảng lòng dân thống nhất

    Trong mọi cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, người dân bao giờ cũng là động lực và là lực lượng hùng hậu đưa đến sự thành công hay thất bại. Lực lượng hùng hậu ấy họ thông minh hơn bất cứ mọi lãnh đạo thông minh nhất. Khi Lãnh đạo đã thu phục được quần chúng nhân dân đông đảo thì mọi khó khăn, trở ngại đều được tháo gỡ để đi đến mục tiêu cuối cùng.
     Ngày 18-8-1945, chính quyền cấp tỉnh đã về tay nhân dân, Hà Tĩnh trở thành một trong bốn tỉnh cả nước giành được chính quyền sớm nhất. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Hà Tĩnh được cho là đã nắm chắc tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng, nhằm đúng thời cơ, tổ chức chặt chẽ sáng tạo, giành thắng lợi trọn vẹn, không có sự đổ máu và diễn ra nhanh chóng. Thế nhưng tìm hiểu việc tổ chức chỉ đạo đấu tranh giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám luôn là đề tài bổ ích và lý thú đối với mọi cán bộ nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn. Bởi chính cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 của Hà Tĩnh vẫn có những đặc điểm riêng không giống với nhiều địa phương khác.
       Theo nguyên lý chung, một cuộc cách mạng muốn giành thắng lợi phải được nổ ra ở nơi kẻ thù suy yếu nhất, tổ chức lãnh đạo cách mạng phải đủ mạnh và quần chúng cách mạng đã chuẩn bị sẵn sàng nhất. Phải chăng Hà Tĩnh là địa phương có tổ chức Đảng mạnh nhất, kẻ thù suy yếu nhất và là nơi đã chuẩn bị đầy đủ nhất cho việc khởi nghĩa giành chính quyền ?. Thực tế cho thấy cuộc khởi nghĩa tháng Tám tại Hà Tĩnh đã không hoàn toàn như vậy.
       Cuộc Khởi nghĩa của Hà Tĩnh bùng nổ khi Đảng bộ đang gặp khó khăn nhất; hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh xuống cơ sở đã bị kẻ địch phá vở nhiều lần. Hầu hết các đồng chí cán bộ, đảng viên ưu tú bị kẻ địch bắt giam giữ trong các nhà tù sau nhiều đợt vây quét khủng bố khốc liệt. Trong đó phải kể tới những thời kỳ vô cùng khó khăn như những năm sau 1930-1931, thời kỳ kẻ địch khủng bố đàn áp phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Tiếp đến là thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định giải tán các tổ chức nghiệp đoàn, cấm các hoạt động của Đảng cộng sản... Đến tháng 5 năm 1940 Tỉnh uỷ lâm thời do đồng chí Trần Quỳ,  Xứ uỷ Trung kỳ chỉ đạo mới được thành lập gồm 5 đồng chí. Sau đó một số địa phương lập lại huyện uỷ như Hương Sơn, Can Lộc, Hương Khê... Nhưng sau cuộc tập kích đồn điền Ferey và việc tổ chức ám sát tên Bang tá Hồ Dũng Tài của Chi bộ Song Con, Cẩm Lĩnh (Hương Sơn) vào tháng 5-1941, thì tổ chức Đảng lại bị kẻ địch triệt phá hoàn toàn. Gần như đến ngày khởi nghĩa hệ thống tổ chức Đảng chưa được khôi phục.
          Thời kỳ tiền khởi nghĩa, Hà Tĩnh vẫn là nơi kẻ địch tăng cường đàn áp, khủng bố và thực hiện nhiều chính sách bóc lột tàn bạo. Thực dân Pháp một mặt phát xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp những người có tinh thần yêu nước. Mặt khác chúng dùng thủ đoạn dã nhân, dã nghĩa lừa phỉnh nhân dân đồng thời đẩy mạnh chính sách vơ vét sưu thuế, gia tăng sức bóc lột.. Nhiều chính cách hà khắc được thực dân Pháp triễn khai ở Hà Tĩnh như hạn chế việc đi lại, đọc sách báo, hội họp, mít tinh của nhân dân. Tuyển thêm lính kín, lính khố xanh, cho mật thám giả danh làm người buôn lợn, buôn bò, ăn xin trà tộn trong dân để dò la tin tức, điều tra hoạt động cộng sản. Các phường hội như Tương tế, Ái hữu bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Những người đứng đầu các tổ chức đều bị bắt bớ, xét hỏi, bị phạt tiền....(1).. Riêng ở Hương Sơn, chỉ sau 2 tháng sau vụ Bang tá Hồ Dũng Tài bị giết đã có 170 người bị bắt, 30 người bị xử bắn.
         Trước ngày khởi nghĩa đến gần, các tổ chức quần chúng hoạt động vẫn còn rất manh mún và bị phân tán, chịu nhiều nguồn tổ chức chỉ đạo khác nhau. Khi mặt trận Việt Minh Nghệ Tĩnh đã triễn khai kế hoạch khởi nghĩa thì các địa phương vẫn còn rất nhiều ảnh hưởng hoạt động của các tổ chức khác nhau như Đảng cộng sản, Thanh niên Phan Anh, Chính phủ Trần Trọng Kim, Lực lượng thân Pháp, thân Nhật .v.v.....Bởi vậy, trong cùng một địa phương, trong cùng một thời gian đã có lúc quần chúng chịu sự chỉ đạo của hai tổ chức cách mạng. Mặt trận Việt Minh mà nòng cốt là đảng viên cộng sản có địa phương cũng đã hình thành hai nhóm hoạt động tách rời nhau như ở Hương Sơn, Nghi Xuân...
           Thế nhưng quần chúng cách mạng sau nhiều lần diễn tập và đã có sự thử thách hy sinh qua cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, họ đã hiểu rõ giá trị của mục tiêu Độc lập tự do và con đường mà Đảng cộng sản đang nổ lực phấn đấu. Những người cộng sản bằng xương bằng thịt đã kiên cường không tiếc máu xương lăn lộn cùng nhân dân, đấu tranh anh dũng, chịu đòn roi tra tấn và đã phải hy sinh cùng trận tuyến với nhân dân. Quần chúng nhân dân đủ điều kiện để hiểu rằng mục tiêu phấn đấu của những người cộng sản lúc bấy giờ với toàn thể nhân dân là một. Vì thế mà những người cộng sản sẵn sàng hy sinh vì dân vì nước và ngược lại người dân cũng sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu của Đảng của dân tộc.
      Có thể nhận thấy rằng, từ sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng tháng 2-1943 và việc thành lập tổ chức mặt trận Việt Minh, gần như khắp nơi trong cả nước đã có bước chuẩn bị trong ý thức về cuộc khởi nghĩa đang đến gần. Việt Minh đóng vai trò như hệ thống tổ chức do Đảng làm nòng cốt đứng ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Trên địa bàn Hà Tĩnh các huyện đã được chia ra nhiều phân khu khác nhau, chịu sự chỉ đạo của nhiều tổ chức Việt Minh khác nhau. Nghi Xuân thuộc phân khu Vinh Bến thủy (Nghệ An); Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê thuộc phân khu La Hương Hương. Các huyện thị còn lại thuộc Phân khu Nam Hà. Đó là những phân khu do Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh phụ trách; ngoài ra cuộc khởi nghĩa của các huyện còn có trường hợp nắm bắt thông tin từ Việt Minh Hà Nội để khởi nghĩa giành thắng lợi. Đặc điểm trên mặc dù có xẩy ra những khúc mắc nhỏ, nhưng đã làm cho cuộc Khởi nghĩa Hà Tĩnh tăng thêm tính phong phú, sôi động và thi đua thúc đẩy việc giành chính quyền các địa phương thêm nhanh chóng.
          Trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh cho thấy ý thức cách mạng và tính chủ động của quần chúng nhân dân rất cao. Trong khi kẻ địch ráo riết khủng bố và đàn áp khốc liệt thì nhân dân vẫn không hề nao núng quyết tâm giành chính quyền. Hàng loạt cán bộ và nhân dân bị bắt bớ tù đày, giết hại thảm khốc, song những người còn lại vẫn tin theo Đảng, quyết tâm đi theo cách mạng. Phong trào yêu nước được duy trì dưới mọi hình thức, mọi hoàn cảnh. Nhất là khi các chính trị phạm thoát ngục trở về mang theo chương trình hành động của Đảng và kinh nghiệm đấu tranh trong các nhà tù đế quốc. Mặc dù quần chúng nhân dân vừa phải lo chống đỡ nạn đói, phải thường xuyên đối phó với các thủ đoạn thâm độc của kẻ địch, nhưng vẫn luôn hướng về tiếng gọi của tổ chức, của Đảng. Phong trào cách mạng vẫn có thể thổi bùng lên làm lung lay nhanh chóng uy lực của bộ máy cai trị. Chính vì thế mà không đợi đến ngày toàn quốc khởi nghĩa, không đợi đến việc hoàn chỉnh tổ chức, thời cơ đến vẫn thống nhất được với nhau vùng dậy tước chính quyền địch về tay nhân dân. Cuộc khởi nghĩa ở Hà Tĩnh không diễn ra theo một chiều từ trên xuống hoặc dưới lên mà diễn ra nơi có khâu yếu nhất của bộ máy kẻ địch xuất hiện. Việc giành chính quyền được bắt đầu từ huyện lên tỉnh, rồi từ tỉnh xuống huyện. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh được diễn ra nhanh chóng, chỉ trong 5 ngày từ 16 đến 21-8-1945.
        Trong khi lãnh đạo của Phân khu Nam Hà đang bàn tính kế hoạch giành chính quyền trong toàn tỉnh thì tại Can Lộc một nhóm thanh niên có quan hệ với Việt Minh Hà Nội, sớm thấy được sự chuyển biến mau lẹ của tình hình đã chớp thời cơ tổ chức tấn công, tước vũ khí lính bảo an, bắt giữ tri huyện, đánh chiếm huyện đường giành thắng lợi. Đây chính là khâu đột phá, khích lệ thúc đẩy các địa phương nhanh chóng khởi nghĩa. Sau khởi nghĩa Can Lộc các Phân khu theo chỉ đạo của Việt Minh địa phương liên tục tổ chức biểu dương lực lượng tiến vào chiếm huyện đường từ tay của chính quyền thân Nhật vừa mới dựng lên. Chỉ có Hương Khê là huyện xa Trung tâm nên đã được sự chi viện của Phân khu Nam Hà cũng nhanh chóng giành thắng lợi. Cuối cùng là Cuộc khởi nghĩa ở Hà Tĩnh đã thể hiện rõ sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân khi đã được khơi dậy và tổ chức. Theo kế hoạch của Việt Minh Nam Hà, để hạ uy thế của chính quyền địch và tránh đổ máu, các địa phương tổ chức cho quần chúng nhân dân biểu tình liên tiếp 3 ngày liền trước khi khởi nghĩa. Thế nhưng trong thực tế khi thời cơ đến, hầu hết các địa phương không đợi đến 3 ngày, mà ngay khi quần chúng được phát động vùng lên đấu tranh thì bộ máy chính quyền thống trị nhanh chóng sụp đổ. Nhiều nơi binh lính mang theo vũ khí vào đội ngũ biểu tình tiến vào giành chính quyền về tay nhân dân.
            70 năm đã qua, người dân Hà Tĩnh với tinh thần cách mạng tháng Tám vẫn tiếp tục phát huy và không ngừng tỏa sáng. Với những thành tựu xuất sắc trong công cuộc đổi mới hoặc như những vụ việc nổi cộm trong từng thời gian càng làm nổi bật hơn bài học lớn về kinh nghiệm thành công của Cách mạng tháng Tám là: Ý Đảng với Lòng dân phải luôn luôn gắn quyện và hài hoà thống nhất với nhau./.


                                                                                              8-2015